Cơ hội và triển vọng tăng trưởng

Tim Evans, Tổng Giám đốc HSBC Việt Nam 18/12/2021 11:00

Hai lĩnh vực quan trọng với Việt Nam trong bối cảnh hậu COVID-19 nhằm đảm bảo ngành tài chính của Việt Nam có thể phát huy tối đa tiềm năng để nắm bắt cơ hội.

>>Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021 gợi ý những hàm ý chính sách

fd

Chỉ số PMI phản ánh mức độ tự tin của các nhà sản xuất đã tăng lên 52,2 trong tháng 11 cho thấy điều kiện kinh doanh cải thiện tháng thứ hai liên tiếp sau thời kỳ giảm do đợt bùng dịch thứ tư khởi phát từ hồi tháng 4. 

2021 là một năm thật đặc biệt. Khi năm Canh Tí qua đi, chúng ta đều mong năm mới Tân Sửu sẽ là một năm ổn định hơn khi chương trình tiêm chủng bắt đầu được triển khai. Quả thật, Việt Nam đã có một khởi đầu tốt đẹp đúng như kỳ vọng trong Quý 1/2021 khi kinh tế tăng trưởng tích cực nhờ xuất khẩu phục hồi mạnh mẽ, đặc biệt là mặt hàng công nghệ.

Tuy nhiên, chúng ta đã không lường trước được tác động khó lường của biến chủng Delta – nguyên nhân khiến nhiều tỉnh thành trên cả nước phải áp dụng các biện pháp giãn cách với nhiều mức độ khác nhau và kết quả là nền kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng, tới mức các chỉ số GDP của Quý 3 ghi nhận mức thấp kỷ lục, mức giảm sâu nhất kể từ khi Việt Nam bắt đầu công bố số liệu GDP.

Là động lực chính thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn được duy trì mạnh mẽ và chỉ tới đợt giãn cách nghiêm ngặt trong năm 2021 mới bị ảnh hưởng nhẹ. Tổng vốn FDI đăng ký từ 1/1 tới 20/11 tăng 0,1% với 1.577 dự án được cấp phép mới còn tổng vốn thực hiện giảm 4,2%. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 11 tháng đầu năm tăng 17,5% giúp thặng dư thương mại có xuất siêu nhẹ.

Nhờ tiêu dùng gia tăng sau khi gỡ bỏ giãn cách, nhu cầu mua sắm trong nước phục hồi, lạm phát cơ bản trong tháng 11 tăng 0,11% so với tháng 10 và tăng 0,58% so với cùng kỳ năm trước, tất nhiên vẫn trong ngưỡng lạm phát mục tiêu do Chính phủ đề ra.

Khi nhìn về 2022 và năm Nhâm Dần sắp tới, chúng ta đều hy vọng rằng với độ phủ vắc-xin nhanh chóng và rộng rãi khắp cả nước, chúng ta có thể sẵn sàng để cơn khủng hoảng mang tên Covid ở lại phía sau và viết tiếp câu chuyện tăng trưởng kinh tế tươi sáng của Việt Nam. Có ai ngờ, giờ đây chúng ta lại đối diện với một biến chủng mới là Omicron – “thủ phạm” khiến các chuyên gia dự báo tình hình trong tương lai thực sự đau đầu. Trong khi chúng ta chưa thực sự hiểu rõ về khả năng lây lan và gây bệnh của Omicron, nhiều quốc gia đã sớm áp dụng trở lại các biện pháp kiểm soát biên giới với nhiều mức độ khác nhau và nền kinh tế có khả năng sẽ phải gánh chịu hậu quả.

Tôi vốn là người có xu hướng lạc quan trong mọi tình huống và với Việt Nam, tôi vẫn luôn có một niềm tin tích cực vào cơ hội và triển vọng tăng trưởng. Đó phần nào cũng là lý do thôi thúc tôi chuyển đến đất nước này. Năng lượng nhiệt huyết, tinh thần kiên cường cùng đam mê và khát khao của người Việt Nam để hướng tới một tương lai luôn tốt đẹp hơn ngày hôm qua.

Sau vài tháng khó khăn do phải áp dụng các biện pháp giãn cách nghiêm ngặt, tình hình đang ngày càng ổn định hơn. Chỉ số PMI phản ánh mức độ tự tin của các nhà sản xuất đã tăng lên 52,2 trong tháng 11 cho thấy điều kiện kinh doanh cải thiện tháng thứ hai liên tiếp sau thời kỳ giảm do đợt bùng dịch thứ tư khởi phát từ hồi tháng 4. Hoạt động kinh doanh đã nhộn nhịp trở lại trong vài tháng qua và tâm lý vững tin đang dần trở lại bất chấp vẫn còn nhiều trở ngại do lao động chưa trở lại nhà máy. Chuỗi cung ứng của Việt Nam đã bị tác động bởi tình trạng thiếu nhân công trên diện rộng, đặc biệt trong các lĩnh vực cần nhiều lao động.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kế Việt Nam (GSO), khoảng 1,3 triệu lao động đã về quê trong giai đoạn từ tháng 7 tới giữa tháng 9 do các biện pháp giãn cách phòng dịch Covid-19. Hệ quả là 17,8% trong số 22.764 doanh nghiệp mà GSO khảo sát cho biết họ đang gặp phải tình trạng thiếu nhân công, trong đó nặng nề nhất là khu vực Nam Bộ với 30,6%. Mặc dù vậy, đơn hàng xuất khẩu mới cũng đã bắt đầu ổn định, các nhà sản xuất đang giải quyết các đơn hàng tồn đọng. Áp lực về giá cũng giảm nhẹ trong mấy tháng qua nhờ giá nguyên liệu thô bắt đầu hạ nhiệt.

Liệu chúng ta sẽ trở lại mạnh mẽ với đà tăng trưởng bền vững? Điều đó chưa ai dám nói chắc. Khi gián đoạn sản xuất và những áp lực dồn nén trong chuỗi ứng toàn cầu được “xả” bớt, chúng ta sẽ bắt đầu nhìn thấy sự phục hồi mặc dù cần sẵn sàng đón nhận bất cứ dấu hiệu nào cho thấy xuất khẩu tăng trưởng chậm lại khi các thị trường phát triển bắt đầu chuyển dịch tiêu dùng từ hàng hóa sang dịch vụ.

Chúng ta cần nhìn lại kỹ hơn về lĩnh vực công nghệ vốn có tác động tích cực không nhỏ tới nền kinh tế Việt Nam. Đơn hàng điện tử tiêu dùng bắt đầu giảm nhẹ. Một phần nguyên nhân là trong những đợt giãn cách đầu tiên, các hộ gia đình trên thế giới đã chi tiêu mạnh tay để mua sắm từ máy tính xách tay tới thiết bị kết nối và TV mới tới máy chơi game.

Kết quả là nhu cầu bắt đầu giảm dần nhưng bù lại nhu cầu về điện tử công nghiệp cũng như linh kiện lắp ráp máy móc và các thiết bị sản xuất khác lại gia tăng. Chúng tôi dự báo nếu cơn khủng hoảng Covid qua đi, thế giới sẽ có một chu kỳ đầu tư vốn lớn diễn ra trên diện rộng, đảm bảo nhu cầu điện tử công nghiệp sẽ duy trì mạnh mẽ và mang lại lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam.

Một động lực quan trọng ngày càng đóng góp nhiều cho kinh tế Việt Nam trước Covid chính là du lịch. Để tất cả các động lực kinh tế Việt Nam cùng khởi động, ở chừng mực nào đó chúng ta cần khôi phục lại lượng du khách.

Năm 2019, Việt Nam đón 18 triệu lượt khách du lịch, đóng góp 33 tỷ USD vào GDP. Trước khi xảy ra Covid, Việt Nam được dự báo sẽ đón 20 triệu lượt khách du lịch trong năm 2020, kỳ vọng sẽ đóng góp 36 tỷ USD cho GDP, tương đương 14% tổng GDP. Tới tháng 11/2021, Việt Nam mới chỉ đón 140.106 lượt khách nước ngoài, tương đương mức giảm trên 96%.

Động lực kinh tế này đã nguội lạnh trong 24 tháng qua nhưng với tình hình biến chủng Delta đang dần yếu đi cùng với tỷ lệ phủ vắc-xin tăng lên, các cơ quan chức năng đã thảo luận về khả năng nới lỏng một số hạn chế du lịch và từng bước mở cửa lại biên giới. Ngành du lịch Việt Nam có tác động trực tiếp lên tăng trưởng kinh tế và thị trường lao động trong nước. Thách thức đặt ra trong năm 2022 là diễn biến khó lường của đại dịch Covid, đặc biệt với sự xuất hiện của biến chủng mới mang tên Omicron. Mặc dù số ca nhiễm mới của Việt Nam đã giảm mạnh khoảng 70% so với đỉnh dịch hồi tháng 8, con số này đang có dấu hiệu tăng trở lại và khả năng sẽ trì hoãn thời điểm thực sự mở cửa ngành du lịch, gián tiếp ảnh hưởng lên tiến độ khôi phục của cả nền kinh tế trong năm tới.

Tôi muốn đi sâu vào hai lĩnh vực quan trọng với Việt Nam trong bối cảnh hậu Covid nhằm đảm bảo ngành tài chính của Việt Nam có thể phát huy tối đa tiềm năng để nắm bắt cơ hội. Đó là tài chính bền vững và số hóa.

>>Đề xuất các gói hỗ trợ khoảng 666.000 tỷ đồng

fd

Tài chính bền vững

Năm 2021 chứng kiến những bước tiến tích cực trên thị trường tài chính xanh của Việt Nam với nhiều giao dịch lớn liên quan đến bền vững. Tuy nhiên, thị trường này mới đang ở giai đoạn non trẻ và còn nhiều tiềm năng để phát triển. Việt Nam là quốc gia đón nhận lượng FDI lớn nhất ở ASEAN xét trên tỷ trọng với GDP. Các tập đoàn toàn cầu ngày càng chú trọng đến ESG và bền vững, họ sẽ đòi hòi một nguồn lực bền vững tốt hơn cả về chất lẫn lượng ở các quốc gia họ có hoạt động.

Đặc biệt, Việt Nam tiếp nhận giá trị đầu tư vào năng lượng tái tạo cao nhất ở khu vực ASEAN và có tiềm năng nhất về khả năng phát triển năng lượng tái tạo trong khu vực đi kèm với tăng trưởng nhờ đầu tư nước ngoài.

Ngân hàng Nhà nước đã năng động phát triển nhiều sáng kiến hỗ trợ phát triển tài chính xanh. Tháng 10 vừa qua, NHNN đã triển khai lấy ý kiến của các tổ chức tài chính góp ý vào Dự thảo Thông tư Hướng dẫn thực hiện quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thông tư trên sẽ có hiệu lực thi hành 1/1/2022, các ngân hàng phải ban hành Quy định nội bộ về quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng và gửi về NHNN, chính thức tạo ra khuôn khổ pháp lý chung cho tài chính xanh ở Việt Nam. Đến năm 2025, NHNN đặt mục tiêu phấn đấu it nhất 10-12 ngân hàng có đơn vị/bộ phận chuyên trách về quản lý rủi ro môi trường và xã hội và 60% ngân hàng tiếp cận được nguồn vốn xanh và triển khai cho vay các dự án tín dụng xanh. NHNN khuyến khích tổ chức tín dụng xây dựng chiến lược tài chính xanh độc lập hoặc lồng ghép vào kế hoạch phát triển hàng năm của mình.

Đây là một động thái quan trọng nhằm thúc đẩy nỗ lực phát triển tài chính xanh của Việt Nam. Theo khảo sát do IFC và NHNN Việt Nam tiến hành, không nhiều ngân hàng Việt Nam có chính sách, quy trình hoặc hệ thống chính thức để quản lý rủi ro môi trường và xã hội của khách hàng. Một trong những rào cản lớn nhất là thiếu hướng dẫn cụ thể về xác định và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong tài trợ dự án.

Theo quan sát của chúng tôi, thị trường còn cần vượt qua một số trở ngại khác trong vài năm tới, trong đó bao gồm thiếu nhân sự có chuyên môn và kỹ năng, thị trường chưa có tiêu chuẩn thống nhất về tài chính “xanh” và phân loại đúng nghĩa, các đơn vị có tầm ảnh hưởng trên thị trường không thể hiện cam kết rõ ràng và mạnh mẽ, độ “vênh” về thời hạn giữa nhu cầu tài chính với nguồn vốn và dữ liệu ESG minh bạch không có.

Một vài đề xuất để NHNN có thể cân nhắc triển khai:

Thứ nhất, đối với thị trường tín dụng, NHNN có thể ban hành yêu cầu cụ thể cho từng công cụ tín dụng để ngân hàng phát triển khung tài chính xanh tốt hơn và ngân hàng chủ động lên kế hoạch.

Thứ hai, cần phải có một khung pháp lý rõ ràng cho các công cụ thị trường vốn. Sổ tay hướng dẫn phát hành trái phiếu xanh của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước không phải là quy định chính thức.

Thứ ba, NHNN nên đặt ra mục tiêu rõ ràng về kết quả tài chính xanh cho từng ngân hàng, ví dụ như tỷ lệ số dư xanh chưa kết trên tổng sổ sách.

Thứ tư, NHNN có thể cân nhắc áp dụng trần tăng trưởng tín dụng cao hơn cho những ngành thuộc nhóm xanh hoặc hỗ trợ tài chính cho tín dụng xanh.

Thứ năm, thêm ưu đãi để khuyến khích các ngân hàng trên hành trình xanh như nâng trần tăng trưởng tín dụng chung cao hơn cho những ngân hàng đạt hoặc vượt chỉ tiêu. Giảm trần tăng trưởng tín dụng cho những đơn vị không đạt cũng là một biện pháp có thể cân nhắc áp dụng.

Thứ sáu, không áp dụng hoặc giảm Tỷ lệ Dữ trữ Bắt buộc đối với số dư xanh.

Thứ bảy, áp dụng kiểm tra giới hạn rủi ro khí hậu trên sổ sách ngân hàng, việc này có thể cho ra nhiều kết quả yêu cầu vốn khác nhau phụ thuộc vào tỷ trọng khoản cho vay xanh của từng ngân hàng

Thứ tám, áp dụng công bố thông tin về môi trường trong báo cáo tài chính nhằm tăng trách nhiệm của các ngân hàng và công khai với các bên liên quan cách quản lý rủi ro tài chính

Thứ chín, thiết lập diễn đàn chia sẻ để kết nối hai khối công và tư cùng hợp tác xây dựng một hành lang pháp lý hiệu quả cho tài chính xanh và các vấn đề về biến đổi khí hậu ở Việt Nam

Số hóa 

2021 là một cột mốc quan trọng của ngành ngân hàng xét về tiến độ số hóa. Vốn dĩ, chúng ta có những điều kiện thuận lợi để tiến xa hơn. Đó là một nền dân số trẻ, yêu thích công nghệ thúc đẩy nhu cầu về giải pháp công nghệ tài chính sẵn sàng nở rộ trong điều kiện cơ sở hạ tầng số phát triển tốt như mạng 3G/4G phủ gần như toàn quốc và số người sử dụng điện thoại di động cao. Năm 2021, McKinsey thực hiện Khảo sát Dịch vụ Tài chính Cá nhân của về hành vi sử dụng ngân hàng số của khoảng 20.000 khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng ở thành thị tại 15 thị trường châu Á-Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam. Kết quả cho thấy tỷ lệ khách hàng Việt Nam dùng các công cụ ngân hàng số ít nhất một lần trong tháng đã tăng gấp đôi trong giai đoạn 2017 - 2021, từ 41% lên 82%.

Tỷ lệ sử dụng công nghệ tài chính và ví điện tử của Việt Nam tăng từ 16% trong năm 2017 lên 56% vào năm 2021. Bên cạnh đó, theo Ernst & Young, 42% ngân hàng Việt Nam sẵn sàng cho quá trình chuyển đổi số, 28% đã triển khai chiến lược số hóa trong hoạt động kinh doanh.

Chính phủ cũng rất chủ động hỗ trợ số hóa ngành ngân hàng. Trong tháng 5, NHNN ban hành Quyết định 810/QĐ-NHNN phê duyệt Kế hoạch Chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, hướng dẫn ngành ngân hàng thực hiện chuyển đổi số như một nhiệm vụ trọng tâm. Việt Nam đặt tham vọng tới năm 2030, ít nhất 70% các nghiệp vụ được thực hiện hoàn toàn trên môi trường số. Kết quả khảo sát của NHNN cho thấy 95% tổ chức tín dụng ở Việt Nam đã xây dựng và triển khai chiến lược chuyển đổi số hoặc trong quá trình hoàn thiện.

Một điều khiến năm 2021 trở nên đặc biệt quan trọng đó là chính đại dịch Covid-19 đóng vai trò như một yếu tố xúc tác giúp Việt Nam đẩy nhanh tiến độ số hóa nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Trước khi Covid xuất hiện, tỷ lệ đón nhận số hóa của Việt Nam còn khá thấp vì khách hàng chưa nhìn thấy lý do thôi thúc họ phải đăng ký sử dụng dịch vụ ngân hàng qua mạng bởi mọi người còn đang chấp nhận quy trình sử dụng giấy tờ và chữ ký sống. Khi Việt Nam áp dụng biện pháp giãn cách lần đầu vào tháng 4/2020, người dân mới nhận ra tầm quan trọng của ngân hàng trực tuyến và các dịch vụ trên mạng. Theo Ernst & Young, khoảng 85% người tiêu dùng đã sử dụng ứng dụng thương mại điện tử trên điện thoại thông minh để mua sắm hàng hóa, dịch vụ ít nhất một lần một tuần và 44% người tiêu dùng đã mua hàng hóa và dịch vụ trên các kênh mạng xã hội khi đại dịch xuất hiện.

Chúng ta cần tiếp tục phát huy những gì đã làm được trong năm 2022 sắp tới vì nhu cầu khách hàng luôn biến đổi không ngừng và đại dịch Covid-19 còn chưa chấm dứt hoàn toàn. 

Trong tương lai, nhiều chuyên gia tin rằng chuyển đổi số sẽ là động lực quan trọng giúp phục hồi và phát triển kinh tế. Khi đó, ngành ngân hàng sẽ đóng vai trò không nhỏ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung của Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm

  • Kích thích phục hồi kinh tế với các giải pháp cải tổ chính sách thuế

    Kích thích phục hồi kinh tế với các giải pháp cải tổ chính sách thuế

    05:30, 08/12/2021

  • Còn dư địa cho chương trình kích thích phục hồi kinh tế

    Còn dư địa cho chương trình kích thích phục hồi kinh tế

    17:00, 07/12/2021

  • Phục hồi kinh tế: Hỗ trợ bao nhiêu là đủ?

    Phục hồi kinh tế: Hỗ trợ bao nhiêu là đủ?

    18:45, 05/12/2021

(0) Bình luận
Nổi bật
Mới nhất
Cơ hội và triển vọng tăng trưởng
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO