Bởi theo chuyên gia, lợi ích kinh tế lớn nhất của đề án không nằm ở bán tín chỉ carbon và doanh nghiệp không nên tham gia vào thị trường carbon trong lĩnh vực lúa gạo bằng mọi giá.
Thay vào đó, doanh nghiệp cần tập trung thực hiện đúng đắn và bền vững các quy trình sản xuất, đảm bảo lợi ích lâu dài cho cả người nông dân và nền kinh tế nông nghiệp.
Tín chỉ carbon đang được quan tâm trên toàn cầu, là một trong những nội dung giúp các quốc gia phát triển bền vững, hướng tới kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Nằm trong dòng chảy ấy, Việt Nam cũng đang quan tâm đến vấn đề này. Tuy nhiên, liên quan tới tín chỉ carbon có nhiều vấn đề, trong đó có khung pháp lý, khả năng đánh giá, đo lường thực tế. Đặc biệt, vấn đề nguồn nhân lực được xem là căn bản bởi đây là yếu tố khởi nguồn để xây dựng các khía cạnh liên quan đến tín chỉ carbon.
Việt Nam đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như Nghị định 06/2022/NĐ-CP, quy định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng Ozon. Theo TS Nguyễn Trung Đông, Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn: “Trong lĩnh vực thị trường tín chỉ carbon, mỗi ngành nghề, mỗi lĩnh vực đều có những đặc thù riêng. Vì vậy, việc đào tạo, nâng cao hiểu biết về khả năng hấp thụ và giảm thải carbon của từng loại cây trồng là vô cùng cần thiết”.
Như vậy, việc xây dựng, triển khai thị trường carbon được khẳng định mang lại nhiều lợi ích và nguồn thu cho Việt Nam. Đặc biệt, với ngành Nông nghiệp, Việt Nam lại lợi thế lớn tham gia vào thị trường carbon trong và ngoài nước.
Bộ NN&PTNT cũng đang triển khai những dự án thiết thực như mua bán tín chỉ rừng dựa trên Thỏa thuận ERPA về chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung bộ, hay Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp. Đây là những sáng kiến góp phần đáng kể vào mục tiêu giảm phát thải carbon của quốc gia.
Có thể nói, trong thời gian qua, ngành nông nghiệp đi đầu trong bán tín chỉ carbon. Năm 2023 là một bước tiến quan trọng khi Việt Nam lần đầu tiên bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng (10,3 triệu tấn CO2) thông qua Ngân hàng Thế giới (WB) với đơn giá 5 USD/tấn, thu về 51,5 triệu USD (khoảng 1.250 tỷ đồng)…
Mục tiêu trong năm nay và năm sau bán thêm 5 triệu tín chỉ, nâng tổng số lượng carbon bán ra lên 25 triệu tín chỉ. Dự kiến, dịch vụ hấp thu và lưu giữ carbon rừng sẽ là một trong những lợi thế cúa Việt Nam trong giai đoạn tới.
Đặc biệt trong đó, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp hiện đang được doanh nghiệp quan tâm tham gia. TS Trần Minh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và PTNT nhấn mạnh: “Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp vùng ĐBSCL không chỉ gắn liền với tăng trưởng xanh mà còn đáp ứng nhu cầu tái cơ cấu hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt nhằm gia tăng giá trị sản phẩm lúa gạo”.
TS Trần Minh Hải cũng đã nêu lên một số hiểu nhầm đang tồn tại liên quan đến Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp. Theo ông Hải, hiện trạng cho thấy nhiều doanh nghiệp tham gia vào đề án nhưng chưa thực hiện đúng thực chất.
"Một số doanh nghiệp sử dụng sai thiết bị hoặc thậm chí “nói quá” về khả năng giảm phát thải của sản phẩm phân hữu cơ hoặc phân vi sinh mà họ cung cấp", ông Hải nói và cho rằng, đây là những quan điểm không chính xác. Để tín chỉ carbon được xác nhận, cần phải áp dụng một quy trình cụ thể, bao gồm đầy đủ các bước trong toàn bộ chuỗi sản xuất.
Hơn nữa, ông Hải chỉ ra rằng, việc tham gia Đề án 1 triệu ha chỉ với mục đích bán tín chỉ carbon là một cách hiểu sai lầm. Ông đưa ra ví dụ cụ thể: Để sản xuất 8 tấn lúa sẽ phát thải tương ứng 8 tấn carbon. Hiện nay, Bộ NN-PTNT đang hợp tác với Quỹ Tài chính carbon chuyển đổi (TCAF) để định giá tín chỉ carbon với mức giá 20 USD/tín chỉ. Nếu nông dân tuân thủ đầy đủ các quy trình, họ có thể giảm được 30% lượng phát thải, tương đương với việc giảm 2 tín chỉ carbon, mang lại lợi ích kinh tế là 960.000 đồng.
“Lợi ích kinh tế lớn nhất của đề án không chỉ nằm ở việc bán tín chỉ carbon mà còn ở việc giảm các chi phí đầu vào thông qua các quy trình sản xuất hiệu quả hơn. Ngoài ra, việc xây dựng thương hiệu lúa giảm phát thải và tổ chức lại sản xuất trên quy mô lớn cũng mang lại giá trị thặng dư đáng kể”, TS. Trần Minh Hải nhấn mạnh.
Đồng thời cho rằng, điều quan trọng cần lưu ý là không nên tham gia vào thị trường carbon trong lĩnh vực lúa gạo bằng mọi giá. Thay vào đó, cần tập trung thực hiện đúng đắn và bền vững các quy trình sản xuất, đảm bảo lợi ích lâu dài cho cả người nông dân và nền kinh tế nông nghiệp.
Cập nhật tiến độ tính đến tháng 7/2024, đã có 7 mô hình thí điểm được triển khai, mỗi mô hình có diện tích trung bình 50 ha tại các tỉnh Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh và Đồng Tháp.
Theo TS Trần Minh Hải, Cục Trồng trọt phối hợp với Viện Môi trường nông nghiệp đang xây dựng kế hoạch thiết lập và hoàn thiện hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV). Đến ngày 4/7/2024, Cục đã trình Bộ NN-PTNT phê duyệt Kế hoạch thực hiện MRV trên các mô hình thí điểm thuộc Đề án.
Hệ thống MRV bao gồm ba phần chính: giảm đầu vào lượng phân đạm và thuốc bảo vệ thực vật; áp dụng phương pháp tưới ngập khô xen kẽ (AWD), quản lý và xử lý rơm rạ sau thu hoạch.
Để đạt được những mục tiêu trên, ông Hải nhấn mạnh, việc nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng cho đội ngũ nhân lực là rất cần thiết.
"Nếu không thu được tín chỉ giảm phát thải thì chúng ta “lỗ” chứ không “lời”. Cần nhân lực để họ có thể thực hiện và quản lý các quy trình sản xuất mới, hiểu rõ và ứng dụng hiệu quả các biện pháp kỹ thuật nhằm tối ưu hóa khả năng hấp thụ và giảm phát thải carbon trong nông nghiệp", TS Trần Minh Hải khẳng định.
Đồng thời cho rằng, đối với lĩnh vực lúa gạo, nhân lực cần có kỹ năng lập hồ sơ, ghi chép nhật ký sản xuất, theo dõi dấu chân carbon. Bên cạnh đó, họ cần biết cách thu gom rác thải thuốc BVTV, đo mực nước, giám sát nhà kho chứa và lò sấy lúa…
Đồng quan điểm về yêu cầu nhân lực, TS Lê Hoàng Thế, Giám đốc Công ty TNHH Lâm nông nghiệp vi sinh VOS Harvest cũng nhấn mạnh, thị trường tín chỉ carbon mang tính quốc tế”. Vì vậy, cần hình thành sàn carbon cho thị trường quốc tế, mục tiêu trong thời gian tới, sàn carbon của Việt Nam sẽ cùng hoạt động với các sàn quốc tế khác. Dự kiến năm 2025, Việt Nam sẽ thí điểm hình thành một sàn giao dịch tín chỉ carbon. Do đó, vấn đề cấp thiết hiện nay là đào tạo một lực lượng môi giới chuyên nghiệp để tham gia mua bán carbon.
Trên cơ sở đó, TS Thế gợi ý cho các doanh nghiệp muốn tham gia thị trường tín chỉ carbon cần chuẩn bị nguồn nhân lực có hiểu biết, tri thức để kiểm kê, kê khai và những vấn đề liên quan đến carbon.