Từ nay tới cuối năm và sang năm 2023 doanh nghiệp sẽ phải đối mặt khó khăn chưa từng có do sụt giảm đơn hàng, “đói vốn”….
>>>Trợ lực cho doanh nghiệp phục hồi
Bất chấp những bất ổn của thế giới, kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục hồi phục mạnh mẽ. Trong đó, Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tính chung 10 tháng ước tăng 9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,6%, một số ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực phục hồi khá như dệt may, da giày, chế biến gỗ…
Trong 10 tháng qua, vốn FDI thực hiện tiếp tục tích cực, đạt 17,45 tỉ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước, góp phần giảm áp lực lên cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam trong ngắn hạn, đồng thời giúp gia tăng năng lực sản xuất mới của nền kinh tế trong thời gian tới. Đặc biệt, trong 10 tháng qua, nước ta cơ bản giữ vững được ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát được lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn.
Sự phục hồi ấn tượng của Việt Nam sau đại dịch được các tổ chức quốc tế và truyền thông nước ngoài ghi nhận. Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng “đáng kinh ngạc” 13,7% trong quý III so với cùng kỳ năm ngoái, đồng thời nâng dự báo tăng trưởng năm 2022 của Việt Nam lên 7,2%.
Mặc dù kinh tế chung phục hồi nhanh chóng sau “bóng ma” đại dịch. Tuy nhiên điều lo lắng là “sức khoẻ” doanh nghiệp thời gian tới trong bối cảnh phức tạp đầy biến động của kinh tế thế giới. Bởi khu vực doanh nghiệp tuy đông về số lượng, nhưng quy mô và tiềm lực không mạnh, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế. Thống kê những tháng đầu năm, bình quân một tháng có 18,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động thì có 12,5 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Nói cách khác, trong nền kinh tế cứ 10 doanh nghiệp gia nhập mới và quay trở lại thì có 7 doanh nghiệp tạm thời hoặc vĩnh viễn rút lui khỏi thị trường. Điều này phản ánh khu vực doanh nghiệp vẫn bị tổn thương nghiêm trọng trước những khó khăn của kinh tế thế giới và trong nước.
Theo kết quả điều tra xu hướng kinh doanh quý 3/2022 của Tổng cục Thống kê, các doanh nghiệp ngành chế biến, chế tạo phản ánh số lượng đơn hàng mới; đơn hàng xuất khẩu mới; sử dụng lao động trong quý 3/2022 đều giảm so với quý 2/2022. Điều tra xu hướng kinh doanh quý 3/2022 cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính chiếm 30,8%; thiếu nguyên nhiên vật liệu chiếm 26,1%; lãi suất vay vốn cao chiếm 23,5%; không tuyển được lao động theo yêu cầu chiếm 25,1%.
Nói như ông Lương Văn Thư, Tổng Giám đốc Công ty may Đáp Cầu chia sẻ, việc lập kế hoạch kinh doanh năm 2023 trong bối cảnh thị trường toàn cầu chuyển biến xấu là điều vô cùng khó khăn cho doanh nghiệp. Hiện doanh nghiệp đang rất nỗ lực, theo dõi sát sao sự chuyển động của thị trường thế giới, đặc biệt là các thị trường xuất khẩu lớn của ngành dệt may, từ đó lập kế hoạch kinh doanh sao cho phù hợp.
Thậm chí, kết quả khảo sát của Vietnam Report ghi nhận top 5 khó khăn cộng đồng các doanh nghiệp VNR500 đang gặp phải bao gồm biến động giá năng lượng, nguyên vật liệu đầu vào; Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng ngành; Rủi ro từ chuỗi cung ứng; Sức ép đến từ tỷ giá gia tăng; Nhu cầu mua sắm, tiêu dùng giảm.
Cũng theo kết quả khảo sát của Vietnam Report, 78,8% số doanh nghiệp ghi nhận mức tăng lên đối với chi phí nguyên vật liệu, trong đó có đến 19,7% số doanh nghiệp báo cáo khoản chi này đã tăng lên đáng kể. Gần 50% số doanh nghiệp dự báo tình trạng này còn tiếp diễn đến cuối năm 2023, thậm chí, có đến 38% số doanh nghiệp cho rằng còn kéo dài sau năm 2023.
Báo cáo của Bộ Công Thương cũng nhận định, lạm phát tăng nhanh tại các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như Mỹ, EU đã khiến người dân thắt chặt chi tiêu, đơn hàng đã giảm thấy rõ trong 2 tháng qua. Ngành dệt may, điện thoại, giày dép đều chưa đủ đơn hàng 2 tháng cuối năm 2022, tỉ lệ mất giá của VND so với USD trong xu hướng mất giá chung càng làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam so với các nước như Bangladesh, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia...
Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, lạm phát ở nhiều nền kinh tế lớn chắc chắn ảnh hưởng đến tốc độ phục hồi kinh tế, dự báo cho thấy khả năng suy thoái toàn cầu sẽ xảy ra. Việc tăng trưởng kinh tế toàn cầu cũng đã được Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) hạ dự báo giảm xuống còn 2,7%, thay vì 3,5% như trước do tác động của chính sách tiền tệ bị thắt chặt. Từ đó làm giảm sức cầu hàng hóa, ảnh hưởng đến sản xuất, xuất khẩu của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Đặc biệt, việc USD tăng giá cũng đã gây tác động bất lợi đến nhập khẩu do hiện nay Việt Nam nhập khẩu nhiều nguyên vật liệu để sản xuất phục vụ cho xuất khẩu. Tỉ giá USD tăng cao đã ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp sản xuất thuộc các ngành nhập khẩu nhiều nguyên vật liệu như dệt may, da giày, điện tử, nhựa, gây sức ép giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
>>>Còn nhiều rào cản pháp lý "làm khó" môi trường kinh doanh
>>>Doanh nghiệp tư nhân đối mặt thách thức nào những tháng cuối năm?
Đánh giá của SSI Research, nhóm doanh nghiệp đang sử dụng các khoản vay nước ngoài để tài trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh sẽ bị tác động mạnh nhất từ rủi ro tỉ giá. Tính từ đầu năm đến nay, VND đã giảm giá 8,6% so với USD. Hoạt động sản xuất, kinh doanh tuy đã phục hồi, nhưng còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu do giá xăng dầu, vật tư đầu vào, chi phí sản xuất tăng cao.
Từ thực tế này, TS Nguyễn Quốc Việt, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và chính sách (VEPR) đề xuất, đầu tiên, cần tiếp tục dùng chính sách thuế/phí (giảm có mục tiêu, địa chỉ) để bớt các khó khăn cho doanh nghiệp/người dân.
Bên cạnh đó, điều hành kinh tế phải linh hoạt và kịp thời, nhất là khâu đảm bảo cung – cầu ổn định, tránh các đứt gãy hoặc rủi ro đổ vỡ hệ thống tài chính – tín dụng. Đặc biệt, tiếp tục nghiên cứu giải ngân gói hỗ trợ lãi suất nhằm hỗ trợ tăng khả năng tiếp cận các nguồn vốn/tín dụng từ ngân hàng (trong bối cảnh các kênh huy động khác đang thắt chặt).
Tại Báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ mới đây, Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) và các Hiệp hội doanh nghiệp đề xuất Chính phủ xem xét kéo dài tới hết năm 2023 một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đã phát huy hiệu quả thiết thực trong giai đoạn đại dịch Covid-19, như: chính sách giảm 2% thuế VAT, chính sách giãn/hoãn áp dụng biểu giá thuê đất mới theo Nghị định số 96/2019/NĐ-CP, ngày 19/12/2019 của Chính phủ; các chính sách tín dụng như: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ,...
Đối với việc duy trì niềm tin của doanh nghiệp vào môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam, đề xuất Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành thực hiện nghiêm túc, thực chất quy trình tham vấn, lấy ý kiến của doanh nghiệp khi xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên quan, không chỉ lấy ý kiến một vài đơn vị mang tính đại diện; đồng thời tập trung rà soát, cải thiện, đẩy mạnh trực tuyến hóa một số nhóm quy trình, thủ tục có tần suất thực hiện lớn và có ảnh hưởng tới hầu hết doanh nghiệp như nhóm thủ tục về: khởi sự kinh doanh; thương mại; các thủ tục, quy trình về đầu tư, thuế… và tháo gỡ trọng tâm các kiến nghị về hoàn thuế cho doanh nghiệp ngành gỗ, cao su.
Để ứng phó với thách thức liên quan thị trường tài chính, Ban IV đề xuất Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước tham vấn các chuyên gia tài chính, chính sách uy tín trong nước, quốc tế để đánh giá bối cảnh và nhận diện giải pháp. Trường hợp cần thiết, đề xuất tính tới các giải pháp đặc biệt trong giai đoạn nhất định nhằm giải nguy cho doanh nghiệp và nền kinh tế, như cho phép các ngân hàng thương mại trong nước tham gia mua lại các trái phiếu sắp tới hạn và xử lý như một dạng tín dụng. Đặc biệt, ngoài tín dụng thông thường, vì lượng trái phiếu sắp tới hạn có giá trị vượt rất nhiều lần khả năng mua lại của một số tổng công ty nhà nước như: Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC), Công ty TNHH một thành viên Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC).
Bên cạnh đó, để gia tăng hiệu quả sử dụng hạn mức tín dụng năm 2023, giúp dòng vốn hỗ trợ được cho doanh nghiệp ở nhiều ngành, lĩnh vực, đề xuất Chính phủ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước làm việc với các ngân hàng thương mại để nghiên cứu, thiết kế các gói tín dụng ưu đãi cho các ngành, lĩnh vực sản xuất chủ lực trong nước, trong đó có những khoản mục dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa để không triệt tiêu năng lực doanh nghiệp. Mặt khác, với chính sách siết tín dụng đối với bất động sản, cần thiết phải phân tách các loại bất động sản để các loại hình như: xây dựng nhà ở xã hội, bệnh viện, trường học, các dự án xây dựng hạ tầng sản xuất..., không bị ảnh hưởng tiêu cực theo chính sách chung, từ đó tạo cơ hội cho nhiều nhóm doanh nghiệp liên quan.
Có thể bạn quan tâm
03:00, 14/11/2022
17:00, 12/11/2022
00:10, 13/11/2022