Doanh nghiệp

Doanh nghiệp Việt trước "ngã rẽ" lớn: (Bài 1) Từ bệ phóng chính sách đến đột phá thực chất

Nguyễn Linh 01/08/2025 17:07

Nếu Nghị quyết 57 là “chiếc la bàn” chỉ hướng tương lai, thì Nghị quyết 68 là “đường băng” để doanh nghiệp cất cánh. Điều còn thiếu, chính là bản lĩnh của doanh nghiệp, những người dám nghĩ lớn, dám b

Khi Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được ban hành cuối năm 2024, không ít nhà quan sát đã gọi đây là “cú hích thể chế” được chờ đợi nhiều năm qua.

Chưa đầy sáu tháng sau, Nghị quyết 68-NQ/TW tiếp tục củng cố vị trí của khu vực kinh tế tư nhân như một động lực chủ đạo trong tiến trình phát triển đất nước. Hai nghị quyết này không chỉ là sự đồng thuận ở tầm vĩ mô, mà còn là lời hiệu triệu dành cho cộng đồng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp công nghệ, những người đang giữ vai trò tiên phong trong hành trình chuyển hóa số phận nền kinh tế Việt Nam.

3736_tl-1750575594981.jpg
Tổng Bí thư Tô Lâm và các đại biểu tham quan các gian hàng trưng bày tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Định hướng phát triển của Đảng, Nhà nước hiện nay: Đồng bộ - Bền vững - Chủ động - Sáng tạo. Cùng với 2 Nghị quyết trên, các Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới đã tạo nên bộ tứ nghị quyết đặt nền móng cho một mô hình phát triển mới, trong đó phải kích hoạt thành công: Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo là động lực; Pháp luật hiện đại, hiệu lực thực thi là nền tảng; Kinh tế tư nhân là đầu tàu tăng trưởng; Hội nhập quốc tế là “cửa sổ lớn” mở ra thế giới.

Định vị vai trò doanh nghiệp

Đất nước ta đang đứng trước yêu cầu cần có chủ trương, quyết sách mạnh mẽ, mang tính chiến lược và cách mạng để tạo xung lực mới, đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, để đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên giàu mạnh, hùng cường, thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Đảng, Nhà nước chủ trương phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của doanh nhân, doanh nghiệp và Nhân dân đối với phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Xác định đây là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; được triển khai quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài với những giải pháp đột phá, mang tính cách mạng; đồng thời, đưa khu vực kinh tế tư nhân trở thành ngọn cờ đầu trên mặt trận kinh tế.

Người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính; nhà khoa học là nhân tố then chốt; Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; cam kết cải thiện môi trường thể chế, gỡ bỏ rào cản, tạo điều kiện để khu vực này bứt phá trong giai đoạn mới.

Trong bối cảnh đó, cần nhận diện và khẳng định cho được vai trò, sứ mệnh của doanh nghiệp Việt Nam; để đích đến năm 2030, khu vực này phải trở thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế.

Trong hơn một thập kỷ qua, doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khu vực tư nhân, đã từng bước khẳng định vai trò dẫn dắt tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trên mặt trận khoa học & công nghệ (KH&CN), sự hiện diện của doanh nghiệp vẫn mờ nhạt, thiếu chiều sâu và chưa hình thành được một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đủ sức cạnh tranh. Phần lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ, dù năng động và nhạy bén, vẫn đang loay hoay trong “vòng kim cô” của thể chế chồng chéo, rào cản tiếp cận vốn, thiếu nguồn lực R&D và đặc biệt là thiếu niềm tin vào môi trường chính sách ổn định, đồng hành.

Nghị quyết 57 đã khẳng định rõ, phát triển KH&CN và đổi mới sáng tạo là một “đột phá chiến lược hàng đầu”, với doanh nghiệp là trung tâm của hệ sinh thái, còn Nhà nước đóng vai trò kiến tạo và dẫn dắt. Đây là bước chuyển nhận thức đáng kể, bởi lâu nay, nhiều chính sách vẫn đặt trọng tâm vào các viện nghiên cứu công lập, trong khi thị trường công nghệ lại chưa thực sự hình thành. Việc đưa doanh nghiệp lên vị trí trung tâm chính là lời tuyên ngôn mới về một chiến lược phát triển dựa trên sáng tạo, thay vì chỉ dựa vào tài nguyên hay lao động giá rẻ.

Tương tự, Nghị quyết 68 đã đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2030 phải có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp tư nhân, với tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt 10 -12%, đóng góp trên 55% GDP và hơn 80% việc làm xã hội. Những con số này không chỉ thể hiện tham vọng mà còn là thách thức nếu không có sự chuyển động thực chất từ thể chế đến hành động của từng địa phương, từng ngành.

Điểm đáng lưu ý trong hai nghị quyết là tính xuyên suốt trong việc xác lập KH&CN và chuyển đổi số như cặp “động cơ kép” cho tăng trưởng. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là: Liệu doanh nghiệp Việt có đủ điều kiện để cất cánh trên đường băng chính sách ấy?

Thực tế, nhiều doanh nghiệp lớn như Viettel, FPT, Hanoi Telecom, VNG, VinFast, TH True Milk… đã sớm nhận diện xu hướng và đầu tư mạnh cho công nghệ lõi, R&D, AI, chuyển đổi số. Nhưng phần đông doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn chiếm hơn 97% tổng số doanh nghiệp cả nước, vẫn đang “bay bằng trực quan” giữa thời đại 4.0. Họ thiếu nhân lực chất lượng cao, thiếu hệ thống quản trị đổi mới, và quan trọng nhất, thiếu khả năng thử – sai trong môi trường kinh doanh còn nhiều rủi ro pháp lý.

Điều đó cho thấy, nếu chỉ ban hành nghị quyết mà không có cơ chế chính sách cụ thể, không tạo ra không gian thử nghiệm chính sách (sandbox), thì chuyển đổi số sẽ mãi là “lối mòn” bị gọi tên, nhưng chưa bao giờ thật sự được trải nghiệm sâu rộng ở tầng lớp doanh nghiệp cơ sở.

Chính vì thế, điểm sáng trong Nghị quyết 57 là chủ trương “thể chế phải đi trước một bước”, đồng thời cam kết dành ít nhất 2% GDP cho phát triển KH&CN, trong đó phần đầu tư từ doanh nghiệp chiếm 60–70%. Song, để hiện thực hóa cam kết này, ngân sách cần “biết thông minh hơn”, linh hoạt hơn, thay vì chia nhỏ, dàn trải hoặc áp dụng quy trình cấp phát kiểu hành chính nặng nề như hiện nay.

Một trong những điểm đột phá tư duy của Nghị quyết 68 là khẳng định vai trò trung tâm của kinh tế tư nhân mà không kèm theo định kiến. Lần đầu tiên, khái niệm “bình đẳng thật sự giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước” được đưa vào văn kiện chính trị ở cấp cao nhất, cùng với cam kết về quyền bảo hộ tài sản, quyền tiếp cận tài nguyên công bằng.

Hơn bao giờ hết, lúc này rất cần có một thế hệ doanh nghiệp tư nhân “đầu tàu”; không thể mong dẫn dắt nền kinh tế chỉ bằng lực lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trên thực tế, muốn có hàng triệu doanh nghiệp tư nhân để phát triển đất nước thì phải làm sao khơi tỏa chính sách cho đội ngũ doanh nghiệp hiện nay vươn lên trở thành các tổng công ty, tập đoàn lớn như những THACO, VinGroup, Sun Group, Hòa Phát…

Yêu cầu lớn lúc này không dừng ở sự thay đổi tư duy và chính sách, mà còn cần sự cải cách mạnh mẽ về thể chế, cơ chế thực thi và một hệ sinh thái kinh doanh minh bạch, hiệu quả, đồng hành cùng doanh nghiệp. Đồng thời, cần có nhiều chính sách biệt đãi, đủ mạnh để giúp hình thành các tập đoàn tư nhân quy mô lớn, đủ mạnh, có khả năng dẫn dắt, cạnh tranh trong nước và quốc tế. Nhưng tư duy mới ấy sẽ không thể biến thành sức mạnh nếu bộ máy thực thi ở địa phương không chậm thay đổi tư duy, nếp nghĩ, cách làm. Không ít doanh nghiệp công nghệ phản ánh, dù chính sách Trung ương khuyến khích đầu tư mạo hiểm, khởi nghiệp sáng tạo, nhưng thực tế họ vẫn phải “đi xin” cơ chế, “gặp khó” khi triển khai vì thủ tục chậm trễ, thiếu cán bộ hiểu công nghệ hoặc lo ngại trách nhiệm. Những “điểm nghẽn mềm” này cần được tháo gỡ bằng chính sự dấn thân của đội ngũ công chức cấp huyện, cấp tỉnh – nơi trực tiếp tạo ra môi trường thuận lợi hay không cho doanh nghiệp.

tieu-chi-du-an-cong-nghe-cao.jpg
Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được xem là “cú hích thể chế”.

Thời cuộc gọi tên người dám nghĩ, dám làm

Thế giới đang bước vào chu kỳ đổi mới công nghệ nhanh chưa từng có, với AI, blockchain, điện toán lượng tử, năng lượng xanh... là những trụ cột định hình trật tự mới. Nếu không bắt nhịp kịp thời, Việt Nam sẽ tiếp tục ở vị trí bên lề trong chuỗi giá trị toàn cầu. Và vì vậy, cơ hội chưa bao giờ rõ ràng như hiện nay: thị trường trong nước 100 triệu dân, hệ sinh thái đổi mới đang khởi động và trên hết là sự đồng thuận về chính trị cho đổi mới thể chế.

Điều còn thiếu, chính là bản lĩnh của doanh nghiệp, những người dám nghĩ lớn, dám bước ra khỏi vùng an toàn. Và đó cũng là thời điểm để Nhà nước chứng minh mình thực sự đồng hành, không phải bằng khẩu hiệu, mà bằng hành động cụ thể, thiết thực, nhanh gọn.

Nếu Nghị quyết 57 là “chiếc la bàn” chỉ hướng tương lai, thì Nghị quyết 68 là “đường băng” để doanh nghiệp cất cánh. Điển hình như việc thay đổi cơ chế để các doanh nghiệp tư nhân được tự do kinh doanh mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện kinh doanh đặc biệt, như chúng ta thấy là sự chuyển từ cơ chế tiền kiểm sang cơ chế hậu kiểm. Doanh nghiệp làm tốt, hiệu quả sẽ được thừa nhận, còn doanh nghiệp lợi dụng cạnh tranh không lành mạnh sẽ bị xử lý theo quy định. Lịch sử kinh tế Việt Nam đang chờ những cái tên mới, không chỉ thành công trong nước, mà còn sải cánh trên bản đồ công nghệ toàn cầu.

Được biết, nhiều doanh nghiệp công nghệ & viễn thông Việt Nam gần đây đã thực sự thể hiện cam kết đưa Nghị quyết 57 vào cuộc sống bằng những hành động cụ thể, đáng chú ý. VNPT tiếp tục dẫn đầu trong triển khai đa dạng các sáng kiến chuyển đổi số. Đơn vị đã hoàn thành phủ sóng VinaPhone 5G trên 63 tỉnh thành, đồng thời mở rộng mạng lưới cáp quang đến từng xã, hộ dân. Công ty cũng khai trương tám trung tâm dữ liệu đạt chuẩn quốc tế, trong đó có IDC Hòa Lạc, và ra mắt hệ sinh thái Công nghệ AI, Big Data, IoT, Cloud nhằm hiện thực hóa lời kêu gọi từ Nghị quyết 57 về đầu tư vào công nghệ lõi.

Viettel không chịu kém cạnh khi tuyên bố hoàn toàn làm chủ các giải pháp 5G, từ mạng lõi cho đến thiết bị thu phát trạm 32×32, và đang nghiên cứu nâng cấp lên cấp 64×64. Đơn vị này cũng đẩy mạnh phát triển chip bán dẫn, nền tảng an ninh mạng tích hợp AI và dữ liệu lớn nhằm thực sự đáp ứng tinh thần “đột phá công nghệ” theo Nghị quyết 57.

Hanoi Telecom đã và đang tự kiến tạo cho mình một vị thế mới.
Hanoi Telecom là một trong những doanh nghiệp đầu tiên cam kết đồng hành cùng chủ trương chuyển đổi số của Chính phủ.

Thành lập từ năm 2001, Hanoi Telecom là doanh nghiệp viễn thông tư nhân duy nhất tại Việt Nam sở hữu đầy đủ giấy phép hạ tầng và dịch vụ viễn thông, từ cố định đến di động, Internet và liên lạc quốc tế. Sau hơn hai thập kỷ phát triển, công ty đã vươn lên thành tập đoàn kinh tế đa ngành với 9 công ty thành viên, hơn 3.000 nhân sự, hoạt động tại 63 tỉnh thành, với lĩnh vực viễn thông là trụ cột cốt lõi.

Với sứ mệnh “Sáng tạo - Hợp tác - Tận tâm”, Hanoi Telecom không ngừng đổi mới để cung cấp giải pháp tối ưu, nâng cao trải nghiệm khách hàng và xây dựng vị thế trên trường quốc tế thông qua hợp tác với những tên tuổi lớn như Hutchison Telecom, tạo nên thương hiệu Vietnamobile.

Tiên phong trong hạ tầng số, chú trọng phát triển con người và đề cao trách nhiệm cộng đồng, Hanoi Telecom đang định hình tương lai của một hệ sinh thái viễn thông - CNTT bền vững, mang tầm vóc quốc gia và khu vực.

Hanoi Telecom là một trong những doanh nghiệp đầu tiên cam kết đồng hành cùng chủ trương chuyển đổi số của Chính phủ, tập trung chuyển đổi mô hình kinh doanh, hạ tầng và con người song song để nâng cao năng lực nội tại. Tập trung vào xây dựng “hạ tầng số, kinh tế số, xã hội số” tại các địa phương, đồng bộ với định hướng của Nghị quyết 57. Tiếp tục mở rộng mạng lưới, trung tâm dữ liệu xanh và nâng cao chuẩn bảo mật, làm nền tảng triển khai rộng khắp chuyển đổi số cấp xã, hỗ trợ Chính quyền điện tử, dịch vụ số.

Hanoi Telecom cũng ghi dấu bằng các dự án thiết thực như áp dụng Smart BTS để tối ưu hạ tầng, triển khai kho và nhà thông minh, camera AI, firewall, đồng thời hỗ trợ chuyển đổi số tại địa phương, như Thái Nguyên, Bắc Kạn.

Ngoài ra, theo chỉ đạo của Bộ TT-TT, nhiều nhà mạng đang tập trung phát triển sản phẩm bảo vệ người dùng như chống SIM rác, đảm bảo an toàn thông tin, và thiết lập mô hình khoán sáng tạo nội bộ để kỹ sư được hưởng lợi từ giải pháp mới theo tinh thần Nghị quyết 57.

Những bước đi cụ thể này cho thấy các doanh nghiệp không chỉ dừng ở tuyên bố, mà đang đưa nghị quyết vào “cuộc sống thực tế”, từ phủ sóng 5G, AI, data center, đến chuyển đổi nội bộ và nâng cao chất lượng dịch vụ. Điều còn lại giờ là duy trì nhịp điệu, phát huy sự linh hoạt và lan tỏa thành quả để biến “chính sách đột phá” thành “động lực phát triển” của nền công nghệ số quốc gia.

Bài 2: Hanoi Telecom - từ điểm tựa hạ tầng đến khát vọng dẫn dắt chuyển đổi số

(0) Bình luận
Nổi bật
Mới nhất
Doanh nghiệp Việt trước "ngã rẽ" lớn: (Bài 1) Từ bệ phóng chính sách đến đột phá thực chất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO