Tâm điểm

Đột phá phát triển cho tăng trưởng cao

TS Phí Vĩnh Tường - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế Giới 01/01/2026 05:00

Năm 2026 - năm mở đầu giai đoạn phát triển mới của kinh tế Việt Nam với mô hình tăng trưởng mới được xác lập theo hướng bền vững nhằm hiện thực hóa hai mục tiêu 100 năm mà Đảng đã đề ra.

tang-truong-gdp.jpg
Việt Nam vẫn duy trì được đà tăng trưởng GDP năm 2025 dự kiến ở mức trên 8%, thuộc nhóm tăng trưởng cao nhất trên thế giới.

Với mô hình tăng trưởng kinh tế chuyển trọng tâm từ các động lực truyền thống sang động lực tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, cần cách tiếp cận theo hướng mới, song song với phát triển khu vực kinh tế đất liền, đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, kinh tế số gắn với những đột phá chiến lược về thể chế, hạ tầng.

Nền tảng cho giai đoạn mới

Nhìn lại nhiệm kỳ vừa qua, nhất là năm 2025, nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và biến động bất định để đạt được những phát triển đáng kể. Quy mô kinh tế tăng từ 346 tỉ USD năm 2020 (xếp thứ 37 thế giới) lên 510 tỉ USD năm 2025 (xếp thứ 32 thế giới), đưa Việt Nam gia nhập nhóm các nền kinh tế có mức thu nhập trung bình. Thu hút vốn FDI ấn tượng, bổ sung nguồn lực tăng trưởng cho kinh tế. Cơ cấu nền kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng đóng góp của khu vực nông nghiệp, tăng tỷ trọng đóng góp của các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.

Đặc biệt, kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2025 vượt mốc 900 tỷ USD đưa Việt Nam gia nhập nhóm các quốc gia có giá trị kim ngạch xuất, nhập khẩu cao nhất thế giới; duy trì trạng thái xuất siêu của nền kinh tế.

Trong thành tựu chung đó, 3 đột phá chiến lược mà Đảng đã đề ra, bao gồm đột phá về thể chế, về phát triển nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ đã phát huy vai trò tích cực, tháo gỡ những “nút thắt” của nền kinh tế. Trong đó, đột phá thể chế góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, được phản ánh bởi sự thay đổi của chỉ báo trung vị của chỉ số PCI (do VCCI thực hiện) tăng từ 6,3 lên 6,8 điểm. Mặt bằng chung thể chế ở các địa phương đã được nâng lên, những trụ cột như tính minh bạch, thiết chế pháp lý được cải thiện, giúp tiết kiệm thời gian cho doanh nghiệp và người dân.

Thứ hai, đột phá kết cấu hạ tầng tạo kênh dẫn hiệu quả thúc đẩy phát triển kinh tế, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh theo nhiều hướng như cắt giảm chi phí vận hành, mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường. Nổi bật là đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đường bộ, nhất là đường bộ cao tốc được ưu tiên, tạo thuận lợi cho vận tải đa phương thức phát triển và thông qua đó, góp phần phát triển các ngành công nghiệp chế biến chế tạo. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã bước đầu đặt nền móng hạ tầng năng lượng, hạ tầng công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu tăng trưởng mới.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực thi các chính sách trong ba đột phá vẫn chưa giải quyết được những thách thức, hạn chế như kỳ vọng. Đó là thể chế chưa đồng bộ, chưa thông suốt; nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển mới.

Mở rộng không gian phát triển mới

Từ năm 2026, nền kinh tế đứng trước yêu cầu tăng trưởng hai con số để đến năm 2030, GDP bình quân đầu người đạt 8.500 USD, tỷ lệ đóng góp của năng suất tổng hợp các nhân tố trong GDP trên 55% và tăng năng suất lao động xã hội đạt mức 8,5%. Việc thực hiện mục tiêu phát triển này diễn ra trong bối cảnh những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức đan xen.

Ở trong nước, Việt Nam thực hiện cải cách bộ máy hành chính theo hướng tinh gọn hiệu quả, việc hợp nhất các đơn vị hành chính tạo không gian phát triển lớn hơn cho các địa phương. Bên cạnh đó, Việt Nam đang tích cực thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, thúc đẩy chuyển đổi số với sự hình thành và phát triển của Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Quá trình chuyển đổi đó cần sự tham gia tích cực của khu vực kinh tế tư nhân trong nước và sự hỗ trợ từ khu vực doanh nghiệp FDI. Trên thế giới, cạnh tranh lớn có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế Việt Nam vốn có độ mở lớn. Không những vậy, cạnh tranh nước lớn còn ảnh hưởng đến cơ hội tiếp cận các công nghệ, nhất là công nghệ quyết định các động lực tăng trưởng tương lai của Việt Nam.

Tuy vậy, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ nói chung đã mở ra các cơ hội tăng trưởng mới. Để đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số, cần tiếp cận mô hình kinh tế theo không gian mới, với ba khu vực là kinh tế đất liền, kinh tế số và kinh tế biển. Trong đó, Việt Nam còn nhiều dư địa thúc đẩy tăng trưởng nhanh kinh tế biển và kinh tế số - 2 khu vực nhiều tiềm năng nhưng giai đoạn vừa qua còn tăng trưởng khiêm tốn.

Từ quan điểm trên, cùng với việc triển khai hiệu quả các nhóm nhiệm vụ và giải pháp mà Đảng đã xây dựng, cần tập trung giải quyết những ách tắc của nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, xây dựng hạ tầng cần thiết cho kinh tế biển và kinh tế số. Trong đó, cần có chính sách đầu tư hạ tầng đường sắt tiêu chuẩn (khổ 1435 mm) và hạ tầng giao thông đường sắt nội tỉnh - hạ tầng duy nhất chưa được quan tâm phát triển trong hạ tầng đường bộ.

Cùng với đó, tập trung phát triển cộng đồng doanh nghiệp. Quan trọng nhất, cần tạo đột phá cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp ở cấp quốc gia và cụm đổi mới sáng tạo theo cấp ngành ở địa phương. Chỉ khi các doanh nghiệp trong nước phát triển, nền kinh tế mới tăng trưởng bền vững, đảm bảo tính độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế.

Cuối cùng, cần tạo đột phá về kết cấu hạ tầng cho kinh tế biển và kinh tế số, trọng tâm là hạ tầng năng lượng, hạ tầng viễn thông băng thông rộng, hạ tầng lưu trữ dữ liệu quốc gia, hạ tầng cảng biển phục vụ du lịch và hậu cần cảng du lịch... Đồng thời, có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp tư nhân trong nước tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho kinh tế biển và kinh tế số, vừa thúc đẩy phát triển vừa đảm bảo an ninh, chủ quyền quốc gia.

(0) Bình luận
Nổi bật
Mới nhất
Đột phá phát triển cho tăng trưởng cao
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO