Chủ tịch VCCI, Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp vì sự PTBV Việt Nam PHẠM TẤN CÔNG khẳng định: Việt Nam đang hướng tới khát vọng thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội.
Theo báo cáo Chỉ số PTBV của Bertelsmann Stiftung và Tổ chức Mạng lưới giải pháp PTBV của Liên Hợp Quốc (SDSN), PTBV là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Tại Hội nghị thượng đỉnh năm 2015 của Liên Hợp Quốc, Chương trình nghị sự 2030 vì sự PTBV (CTNS 2030) đã được các nước thành viên Liên Hợp Quốc đồng thuận thông qua. Chương trình này đã đưa ra tầm nhìn cho giai đoạn phát triển 15 năm tới với 17 mục tiêu PTBV và 169 mục tiêu cụ thể, định hướng phương thức thực hiện, các quan hệ đối tác toàn cầu và các hành động triển khai thực hiện.
Có thể khẳng định, kể từ khi Chương trình Nghị sự 2030 của Liên Hợp Quốc được thông qua, tiến trình đạt tới sự phát triển thịnh vượng và hài hòa dưới cả 3 góc độ kinh tế - xã hội - môi trường tại mỗi quốc gia giờ đây đã có đích đến cụ thể và thống nhất. Trong gần 6 năm theo đuổi thực hiện các mục tiêu PTBV, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường. Xét trên phạm vi toàn cầu, thứ hạng của Việt Nam về kết quả thực hiện các Mục tiêu PTBV (SDG) liên tục tăng trong giai đoạn 2016 - 2021, giúp vị thế của Việt Nam trên bảng xếp hạng toàn cầu cũng được cải thiện không ngừng với chuỗi tăng về thứ hạng, từ vị trí 88/149 quốc gia năm 2016 lên vị trí 51/165 quốc gia năm 2021.
Việt Nam được đánh giá đã và đang thực hiện tốt một số chỉ tiêu về xóa đói nghèo; một số khía cạnh trong đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người; cải thiện trong các khía cạnh trao quyền lực và cơ hội tham gia chính trị cho phụ nữ; đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh cho tất cả mọi người, đặc biệt là mục tiêu tăng cường phương thức thực hiện và thúc đẩy đối tác toàn cầu vì sự PTBV…
Một số mục tiêu khác như đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục; Tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho mọi người; Xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu cao, thúc đẩy công nghiệp hóa bao trùm và bền vững, tăng cường đổi mới... về cơ bản Việt Nam vẫn có thể đạt được nếu có thể “hóa giải” được một số tồn tại, vướng mắc.
Tuy nhiên, một số mục tiêu Việt Nam khó có thể đạt được trong năm 2030. Đó là mục tiêu đảm bảo khả năng tiếp cận nguồn năng lượng bền vững, đáng tin cậy và có khả năng chi trả cho tất cả mọi người Việt Nam; và đặc biệt là phát triển đô thị, nông thôn bền vững. Đây cũng là một trong những mục tiêu dự kiến sẽ gây nên không ít thách thức cho Việt Nam trong tiến trình hiện thực hóa vào năm 2030 bởi cho đến hiện tại, chỉ có 3 trong số 10 chỉ tiêu thuộc mục tiêu chung này (chiếm 30%) đã được Việt Nam hoàn thành hoặc cơ bản hoàn thành.
Cho đến thời điểm này, trong số 17 mục tiêu PTBV, Việt Nam chỉ được đánh giá ở mức “hoàn thành” đối với 2/17 mục tiêu là Chất lượng giáo dục và Tiêu thụ và sản xuất có trách nhiệm. Mặc dù quãng đường phía trước để thực hiện mục tiêu PTBV còn nhiều chông gai, nhưng việc Việt Nam đã dần vươn lên những vị trí cao hơn bảng xếp hạng đã cho thấy những nỗ lực không ngừng nghỉ của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân trong quá trình thực hiện các mục tiêu PTBV đã được cam kết.
Đặc biệt, tại Hội nghị thượng đỉnh khí hậu COP26, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã khẳng định, mặc dù là nước đang phát triển mới chỉ bắt đầu tiến hành công nghiệp hóa trong hơn 3 thập kỷ qua, song với lợi thế về tiềm năng năng lượng tái tạo, Việt Nam sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ bằng nguồn lực của mình, cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, để đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Phát triển bền vững đối với các doanh nghiệp có thể hiểu đơn giản là chiến lược quản trị doanh nghiệp phát triển thích ứng được với mọi hoàn cảnh, dựa trên cơ sở bảo đảm hài hòa các lợi ích về kinh tế (lợi nhuận, doanh thu) với lợi ích của người lao động và bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, trong nhiều năm trở lại đây, nhiều doanh nghiệp dần chuyển dịch định hướng, chiến lược kinh doanh từ “kinh doanh vì lợi nhuận” sang kinh doanh có trách nhiệm.
Đại dịch COVID-19 theo một cách nào đó, là “cú hích” quan trọng để các doanh nghiệp thay đổi tư duy nhìn nhận về khủng hoảng, từ đó có sự chuẩn bị và đầu tư, thậm chí tập trung nhiều nguồn lực hơn cho việc thiết lập khung quản lý rủi ro và kế hoạch hoạt động kinh doanh liên tục. Khi khủng hoảng xảy ra, doanh nghiệp có thể khởi động ngay cơ chế phòng ngự và khắc phục sự cố, từ đó phục hồi và phát triển bền vững hơn. Đến khi dịch được khống chế, kinh tế phục hồi, trên cơ sở những lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp đã tạo dựng từ nguồn nhân lực và niềm tin của người lao động với doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ có nền tảng vững vàng để sớm khôi phục và quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng.
Thách thức lớn nhất hiện nay đối với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững là nhận thức và năng lực của toàn hệ thống (con người, cơ sở hạ tầng, tài chính và thể chế) còn thấp, làm cho những thói quen cũ trong sản xuất đời sống và quản lý chậm thay đổi. Nhận thức về phát triển bền vững của không ít cơ quan, doanh nghiệp và người dân còn chưa đầy đủ, thiếu thống nhất; các chính sách kinh tế - xã hội còn thiên về tăng trưởng nhanh về kinh tế và ổn định xã hội mà chưa quan tâm đúng mức đến tính bền vững khi khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, gắn với bảo vệ môi trường…
Nguồn lực tài chính để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam chủ yếu vẫn là nguồn lực công, trong khi đó cân đối ngân sách nhà nước và dư địa để mở rộng quy mô động viên ngân sách nhà nước đang đối mặt với nhiều thách thức. Việc huy động nguồn lực tư nhân, các nguồn lực trong xã hội lại hạn chế, khi mà các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ, năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động thấp, còn các doanh nghiệp FDI chưa tạo được sự lan tỏa về năng suất và công nghệ trình độ cao.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp Việt vẫn đang sử dụng công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh không cao, trình độ phát triển khoa học công nghệ (nhất là R&D và chuyển giao công nghệ) còn thấp. Tài nguyên thiên thiên bị suy giảm nghiêm trọng, một phần bị hủy hoại do phương thức tăng trưởng còn nặng theo chiều rộng, sử dụng năng lượng hóa thạch là nguyên liệu đầu vào, trong khi trình độ sử dụng công nghệ mới để giảm tiêu hao vật chất còn thấp.
Đáng chú ý, đại dịch COVID-19 đang tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội toàn cầu, khiến các chuỗi cung ứng sản xuất bị ngưng trệ, nhiều lĩnh vực dịch vụ phải đóng cửa, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp phát triển bền vững tại Việt Nam.
Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững được ban hành theo Quyết định số 622/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó đã nêu rõ 17 mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030, bao gồm 115 mục tiêu cụ thể, tương ứng với các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu được thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh Liên Hợp Quốc vào tháng 9/2015. Kế hoạch hành động thể hiện nỗ lực và cam kết của Chính phủ trong việc thực hiện các Mục tiêu SDGs của Việt Nam.
Mới đây, ngày 1/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 với các mục tiêu tham vọng nhằm đưa Việt Nam bắt kịp, tiến cùng, vượt lên, hướng tới khát vọng thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội.
Đây là minh chứng rõ nét nhất về việc Việt Nam đã quyết tâm lựa chọn cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo định hướng tăng trưởng xanh. Bởi tăng trưởng xanh thực sự đã trở thành xu thế tất yếu và là mục tiêu mà mọi quốc gia đang hướng tới, đặc biệt đối với các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu như Việt Nam. Lựa chọn tăng trưởng xanh cũng được coi là một hướng tiếp cận mới trong tăng trưởng kinh tế nhằm đạt được thịnh vượng bao trùm cho các quốc gia, đảm bảo các lợi ích kinh tế và sự hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với phục hồi và bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên. Cũng thông qua tăng trưởng xanh, các giá trị văn hóa cốt lõi được truyền tải, chia sẻ và thấm nhuần trong chính lối sống của con người.
Trong xu thế chung đó, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Hội đồng doanh nghiệp vì sự PTBV Việt Nam (VBCSD) trong những năm qua và trong thời gian tới luôn phát huy vai trò định hướng, hỗ trợ doanh nghiệp trong thực hiện PTBV.
Chúng tôi phối hợp chặt chẽ với Hội đồng Quốc gia về PTBV và Nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như các bộ, ngành, địa phương thực hiện các sáng kiến như: Tổ chức các diễn đàn đối thoại chính sách về PTBV; thực hiện chương trình đánh giá xếp hạng doanh nghiệp bền vững dựa trên bộ chỉ số doanh nghiệp bền vững CSI; huy động sự tham gia của doanh nghiệp trong việc thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh cũng như Diễn đàn cấp cao vì mục tiêu xanh toàn cầu 2030 (Diễn đàn P4G); triển khai sáng kiến về nền kinh tế tuần hoàn...
VCCI và VBCSD cũng kiến nghị, tư vấn cho Chính phủ trong thực hiện các giải pháp giải quyết các thách thức trong các mô hình đối tác công tư (PPP) nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp trong thực hiện các mục tiêu PTBV của Việt Nam.
VCCI và VBCSD cũng tích cực khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng các mô hình kinh doanh bền vững, công nghệ sản xuất sạch hơn, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường; thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo và đẩy mạnh thực hiện hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời, hỗ trợ nâng cao năng suất lao động trong doanh nghiệp; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng lực quản lý, quản trị doanh nghiệp...