Cần tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, hoàn thiện cơ chế chính sách để thu hút và tận dụng hiệu quả dòng vốn FDI thế hệ mới, đưa các KCN thành trung tâm sản xuất tiên tiến, bền vững.

Phát biểu tại Diễn đàn “Hoàn thiện chính sách thu hút làn sóng FDI thế hệ mới vào các khu công nghiệp” do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chỉ đạo, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức vào chiều 28/11, ông Nguyễn Đức Hiển, Phó trưởng ban Chính sách, chiến lược Trung ương cho biết, gần 40 năm đổi mới, khu vực FDI đã thực hiện sứ mệnh quan trọng, đưa Việt Nam tham gia rộng hơn, trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu, đóng góp đáng kể vào GDP, vốn đầu tư, sản xuất công nghiệp, xuất khẩu và việc làm.
Theo đó, khu vực này đã đóng góp hơn 20% trong GDP; 15%-18% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội; khoảng 25,4%-28% tổng thu ngân sách; tạo ra hơn 5,1 triệu việc làm; đóng góp hơn 70% giá trị xuất khẩu và hơn 50% giá trị sản xuất công nghiệp của Việt Nam.
Riêng trong giai đoạn 2021–2025, tổng FDI thực hiện đạt hơn 158 tỷ USD, vượt mục tiêu 100–150 tỷ USD đề ra trong Nghị quyết 50-NQ/TW. Trong 10 tháng đầu năm 2025, Việt Nam đã thu hút 31,52 tỷ USD vốn FDI đăng ký, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước; giải ngân đạt 21,3 tỷ USD, mức cao nhất trong 5 năm, tập trung lớn nhất trong lĩnh vực chế biến, chế tạo
Đặc biệt, các khu công nghiệp (KCN) ngày càng đóng vai trò trung tâm trong thu hút vốn FDI, đặc biệt là dòng vốn FDI thế hệ mới, nhờ cung cấp hạ tầng đồng bộ và môi trường kinh doanh được kiểm soát. Cơ chế quản lý KCN theo mô hình mới đã phát huy vai trò, góp phần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và tạo môi trường đầu tư thuận lợi hơn ở địa phương.
Do đó, vốn FDI trong các KCN, khu kinh tế bình quân hàng năm chiếm khoảng 40% tống vốn FDI đăng ký tăng thêm và trong xu hướng gia tăng những năm gần đây.
Theo ông Hiển, năm 2019, lần đầu tiên, một Nghị quyết riêng về đầu tư nước ngoài được Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW đã đánh dấu bước ngoặt về tư duy khi chuyển từ “thu hút” sang “hợp tác”, hướng tới dòng vốn đầu tư chất lượng cao và phát triển bền vững.
Ông Hiển nhấn mạnh, điều này khẳng định định hướng lớn của Đảng về thu hút dòng vốn dòng vốn FDI thế hệ mới, là thế hệ FDI công nghệ cao, tập trung vào nghiên cứu và phát triển (R&D), đầu tư xanh, mang lại giá trị gia tăng cao và có sức lan tỏa lớn, liên kết chặt chẽ với khu vực trong nước, đưa Việt Nam tích hợp sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu; đồng thời, có năng lực quản trị hiện đại, trách nhiệm xã hội và cam kết phát triển dài hạn.
Ông Hiển cho biết thêm, qua 29 năm kể từ khi Chính phủ Việt Nam ban hành quy định cụ thể về KCN trong Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, đến nay, số lượng các KCN ngày càng tăng, hiện có khoảng 478 KCN được thành lập, giữ vai trò then chốt đối với tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Cơ chế, chính sách quản lý, phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN liên tục được bổ sung, hoàn thiện. Trước yêu cầu đón bắt làn sóng FDI mới, Nghị quyết 50-NQTW (2019) của Bộ Chính trị đã đặt ra yêu cầu phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế, chính sách cho các KKT, KCN, khu công nghệ cao và các mô hình tương tự khác theo hướng xác định rõ trọng tâm phát triển và cơ chế, chính sách vượt trội phù hợp với đặc thù của từng mô hình. Năm 2022, Nghị định 35/2022/NĐ-CP về quản lý KCN, KKT được Chính phủ ban hành nhằm khắc phục “điểm nghẽn” tồn tại trong Nghị định 82/2018, đáp ứng yêu cầu mới, bổ sung một số mô hình KCN mới, đồng thời đồng bộ hoá với các luật mới (đầu tư, doanh nghiệp, quy hoạch, xây dựng, môi trường…).
Đến nay, Nghị quyết 57-NQ/TW tiếp tục đặt ra nhiệm vụ “phát triển các KCN công nghệ số” - là một trong những yêu cầu để hiện thực hóa mục tiêu phát triển KHCN của đất nước.
Mới đây, Nghị quyết 224/2025/QH15 (27/6/2025) yêu cầu “tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện quy định, có chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư, phát triển các loại hình KCN, KKT mới bao gồm KCN sinh thái, KCN chuyên ngành, KCN hỗ trợ, KCN công nghệ cao, KKT chuyên biệt, khu thương mại tự do và các mô hình tương tự”.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang nỗ lực chuyển mình, hướng tối mục tiêu tăng trưởng 2 con số, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, hiện thực hóa các mục tiêu Trung ương và Quốc hội đặt ra, Chính phủ đang nỗ lực xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 35/2022/NĐ-CP nhằm hoàn thiện khung pháp lý về KCN, KKT, điều chỉnh để phù hợp với các luật mới về đất đai, quy hoạch, đầu tư công và phân cấp quản lý địa phương..., giảm khoảng trống pháp lý và đồng bộ hóa quy hoạch, đồng thời đề xuất sửa đổi mạnh mẽ các quy định về ưu đãi đầu tư. Đây sẽ là cơ hội, là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy thu hút đầu tư FDI vào các KCN.
Nhìn chung, Việt Nam đã và đang có nhiều điều kiện thuận lợi thúc đẩy thu hút FDI, đặc biệt là FDI chất lượng cao vào các KCN như môi trường chính trị- kinh tế, xã hội ổn định, an toàn với thị trường tiềm năng 100 triệu dân, nguồn lao động trẻ dồi dào; đi kèm lợi thế dẫn đầu khu vực về hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa kết nối thị trường với 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã được ký kết; là điểm đến hấp dẫn toàn cầu trong xu hướng dịch chuyển dòng vốn FDI; cùng với đó là một loạt cơ chế chính sách thu hút FDI cởi mở, thông thoáng hơn và trọng tâm hơn.
Mặc dù vâỵ, ông Hiển nhận định, vẫn còn những hạn chế, những vấn đề lớn cần thẳng thắn nhìn nhận trong việc thu hút dòng vốn FDI. Cụ thể, Mặc dù dòng vốn FDI thu hút tăng mạnh, nhưng đóng góp của khu vực FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội vẫn tương đối khiêm tốn và trong xu hướng giảm, đặc biệt là từ năm 2018 đến nay, mức giảm từ 17,9% năm 2018 xuống 16,5% năm 2024. Lợi thế chi phí thấp/lao động giá rẻ dần mất vị thế cạnh tranh.
Bên cạnh đó, chất lượng vốn FDI và tính lan tỏa còn thấp. Đóng góp của FDI trong việc nâng cao năng lực công nghiệp còn hạn chế. Liên kết giữa khối doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước yếu; tỷ lệ nội địa hóa của doanh nghiệp FDI ở mức thấp (chỉ khoảng 20-25%); đóng góp của khu vực FDI vào hàm lượng giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu thấp hơn rất nhiều so với các nước Đông Á và Đông Nam Á.

Trình độ công nghệ và chuyển giao công nghệ chưa cao khi các doanh nghiệp FDI, thậm chí cả một số tập đoàn công nghệ lớn vẫn chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực gia công lắp ráp, thâm dụng lao động và ít có khả năng tạo tác động lan tỏa về công nghệ. Số lượng, quy mô các dự án đầu tư vào công nghệ cao, xanh, sạch, thân thiện môi trường thấp xa so với mục tiêu Nghị quyết 50-NQ/TW.
Đáng chú ý, sự phụ thuộc rất lớn của Việt Nam vào khu vực FDI trong xuất khẩu và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu đặt ra yêu cầu phải nâng cao năng lực tự chủ xuất khẩu, năng lực kết nối của khu vực kinh tế trong nước, hướng tới chuyển dịch theo hướng xuất khẩu bền vững và tự chủ hơn trong dài hạn.
Đặc biệt, ông Hiển cũng chỉ ra, thể chế, chính sách và các điều kiện hạ tầng, nhân lực để thu hút FDI thế hệ mới còn khá nhiều hạn chế. Thể chế, cơ chế chính sách và môi trường kinh doanh chưa thực sự thuận lợi, còn nhiều rủi ro, thủ tục hành chính còn phức tạp, mất nhiều thời gian, nhất là trong cấp phép sau đầu tư (liên quan đến vấn đề đất đai, xây dựng, môi trường, PCCC).
Từ chính sách đến thực thi tại địa phương vẫn có những tồn tại, năng lực thể chế ở một số địa phương chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý dòng vốn FDI thế hệ mới, nhất là ở khâu phân tích, thẩm định các dự án công nghệ cao, v.v. Cơ chế ưu đãi chưa đảm bảo khả năng cạnh tranh quốc tế; Cơ chế khuyến khích, ưu đãi để tăng để tăng liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghệp trong nước chưa thỏa đáng, trong khi điều kiện, thủ tục hưởng ưu đãi khó đáp ứng; cách tiếp cận, hỗ trợ chưa phù hợp, còn mang tính đại trà, thiếu lựa chọn đối tượng hỗ trợ là doanh nghiệp có đủ năng lực kết nối. Đối với các KCN, KKT, ngoài các ưu đãi chung, ưu đãi đầu tư vào các KCN hiện nay mới chủ yếu tập trung ở ưu đãi thuế và ưu đãi về hạ tầng (thuê đất đai,…); Hạ tầng và nguồn nhân lực còn là điểm nghẽn...
Bước vào giai đoạn mới, ông Hiển cho biết, dự thảo Nghị quyết Đại hội Đảng XIV định hướng toàn diện hơn về thu hút FDI, đó là “thu hút có chọn lọc các dự án FDI; tập trung chủ yếu cho phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, phát thải thấp; thúc đẩy kết nối khu vực FDI với khu vực kinh tế trong nước, thực hiện có hiệu quả quá trình chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và đào tạo nguồn nhân lực; hình thành hệ sinh thái và tăng cường chuỗi liên kết giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước”.
Để hiện thực hóa yêu cầu đó và tiếp tục thu hút có hiệu quả dòng vốn FDI thế hệ mới theo tinh thần của Nghị quyết số 50-NQ/TW, đặc biệt là thu hút FDI chất lượng cao vào các KCN, KKT, đồng thời, góp phần hoàn thiện nội dung Đề án Định hướng thu hút dòng vồn FDI thế hệ mới mà Bộ Tài chính đang xây dựng; ông Hiển nhấn mạnh, cần một cách tiếp cận mới, đồng bộ và quyết liệt hơn.
Ông Hiển cũng gợi ý, các bên cần có những trao đổi, thảo luận cụ thể, tập trung vào việc cần định vị rõ ràng Chiến lược thu hút dòng vốn FDI thế hệ mới. Trong chiến lược đó, cần xác định rõ lĩnh vực trọng tâm, ưu tiên thu hút FDI.
Kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển và các quốc gia chuyển đổi thành công là xác định rất rõ lĩnh vực “xương sống” của nền kinh tế trong tương lai, như công nghiệp bán dẫn, AI, công nghệ cao, năng lượng xanh,….
Ông Hiển cho biết:"Chiến lược thu hút FDI không chỉ phục vụ mục đích thu hút vốn, mà còn hướng đến xây dựng hệ sinh thái toàn diện, kết nối FDI với khu vực doanh nghiệp trong nước, dần làm chủ công nghệ và chiếm lĩnh các vị trí quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu."
Bên cạnh đó, tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách, cải cách mạnh mẽ môi trường đầu tư, đặc biệt cần nhanh chóng xây dựng thể chế chính sách, bao gồm cả các cơ chế thử nghiệm, sandbox đối với những lĩnh vực mới như AI, công nghệ số, năng lượng xanh, v.v... Đồng thời, nghiên cứu thiết kế lại công cụ ưu đãi đầu tư và thúc đẩy liên kết – lan tỏa thích ứng với bối cảnh mới; chuyển từ ưu đãi thuế sang ưu đãi dựa trên chi phí (R&D, khấu hao và đào tạo) hoặc dựa trên kết quả đầu ra. Xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ toàn diện, đặc biệt là các vấn đề về phát triển hạ tầng. Ông cũng thông tin rằng Việt Nam hiện đang đối mặt với những thách thức lớn về hạ tầng và sự thiếu hụt đất “sạch” cho các nhà đầu tư lớn, đặc biệt tại các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội và TP HCM.
Ngoài ra, cần tập trung phát triển mô hình KCN chuyên sâu, KCN thông minh, sinh thái, các khu công nghệ cao với môi trường và thể chế vượt trội, có hạ tầng kết nối chiến lược, năng lượng tái tạo và hạ tầng xã hội, tạo điều kiện tốt nhất cho các tập đoàn nước ngoài đáp đầu tư, sản xuất tại Việt Nam. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Hoàn thiện chính sách về lao động theo yêu cầu của các FTA thế hệ mới.
Song song với các cơ chế thu hút, ông Hiển cũng cho rằng cần có cơ chế sàng lọc đầu tư minh bạch, hiệu quả, với quy trình, quy định rõ ràng. Điểm nhấn quan trọng và mang tính định hướng là cần có quy định rõ ràng về chi phí cho các hoạt động giảm phát thải khí nhà kính và phát triển mô hình cộng sinh công nghiệp. Cơ chế này giúp tạo ra một động lực tài chính mạnh mẽ, khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi sang công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng và thực hiện các giải pháp thân thiện với môi trường.
Việt Nam đang đứng trước thời cơ lớn để chuyển mình trở thành trung tâm sản xuất gắn với đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững trong khu vực. Việc hoàn thiện chính sách thu hút làn sóng FDI thế hệ mới vào các KCN sẽ đóng vai trò quan trọng để hiện thực hóa mục tiêu này.
Ông Hiển nhấn mạnh, với quyết tâm chính trị cao, sự đồng lòng của toàn xã hội, sự sáng suốt trong lựa chọn chiến lược và chủ động thích ứng, với quyết tâm tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, hoàn thiện cơ chế chính sách, Việt Nam có thể thu hút và tận dụng hiệu quả dòng vốn FDI thế hệ mới, biến các KCN thành trung tâm sản xuất tiên tiến, bền vững, đóng góp vào mục tiêu phát triển lâu dài đất nước.