Theo các chuyên gia, giá nhà ở Việt Nam đang ở mức báo động. IMF khuyến cáo giá nhà không nên quá 30 năm thu nhập một công nhân, nhưng tại Việt Nam con số này đã đạt mức 60 năm.
Chia sẻ tại diễn đàn “Thị trường Bất động sản Việt Nam sẵn sàng bước vào kỷ nguyên mới” do Hội môi giới Bất động sản Việt Nam (VARS) tổ chức, TS Lê Xuân Nghĩa - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cho hay, theo khuyến cáo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), giá nhà không được gấp quá 30 năm thu nhập của một công nhân. Nếu quá mức này, dấu hiệu bong bóng bất động sản xuất hiện.
"Tuy nhiên, ở Việt Nam, đâu đó đã gấp khoảng 60 năm. Tốc độ tăng giá bất động sản ở Việt Nam chóng mặt” - ông Nghĩa cho biết.
Đồng quan điểm, TS Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng BIDV, Thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách Tài chính - Tiền tệ Quốc gia cũng thông tin, chỉ số tăng giá bất động sản từ năm 2019 đến nay của Việt Nam tăng nhanh nhất khu vực, đặc biệt là nhà ở và đất nền.
Cũng theo ông Lực, một khảo sát mới nhất của một tổ chức chuyên nghiên cứu về bất động sản cho thấy, giá bất động sản ở Việt Nam so với thu nhập trung bình của người dân phải mất khoảng 23,5 năm thu nhập mới mua được một căn nhà giá trung bình, so với bình quân của thế giới là 14,5 năm.
Vị chuyên gia khẳng định, không thiếu nguồn vốn để cung cấp cho thị trường bất động sản. Nguồn vốn ngân hàng cho bất động sản vẫn tăng 9,15% trong 9 tháng đầu năm. Trong đó, cho vay chủ đầu tư tăng 16%, cho vay mua nhà chỉ tăng 4,6%, tức là người dân chưa vay tiền để đi mua nhà.
Cũng ghi nhận tình trạng trên, bà Phạm Thị Miền - Phó Viện trưởng VARS IRE, Hội môi giới bất động sản Việt Nam (VARS) cũng cho hay câu chuyện bất động sản nhà ở tăng khó kiểm soát đã diễn ra trong năm 2024.
Theo đó, thị trường căn hộ tại Hà Nội liên tục dẫn đầu tốc độ tăng trưởng về giá bán qua các kỳ, theo sau là thị trường căn hộ Đà Nẵng. So với kỳ gốc, giá bán bình quân của các dự án tại Hà Nội, Đà Nẵng, TP HCM ghi nhận mức tăng lần lượt là 72,4% , 49,9% và 34,3%.
Theo các chuyên gia, việc thúc đẩy nguồn cung nhà ở xã hội được xem là một trong những giải pháp quan trọng để giải quyết vấn đề bất cập trên.
Ông Lực cho biết đã kiến nghị Chính phủ sớm đưa gói tín dụng ưu đãi cho nhà ở xã hội. Bộ Xây dựng đã đề nghị, bước đầu khoảng 60.000 tỷ; trong đó Trung ương là 30.000 tỷ đồng, chủ yếu dưới dạng phát hành trái phiếu Chính phủ. Còn địa phương khoảng 30.000 tỷ đồng.
Đặc biệt, cần tháo gỡ nhanh những dự án bất động sản, đất đai còn vướng mắc hoặc bỏ hoang trong nhiều năm qua. Nếu giải quyết được vấn đề này, lượng cung bất động sản sẽ cực lớn”, ông Lực nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, ông Lực cho rằng, hiện có nhiều thông tin, số liệu khác nhau về bất động sản nên kiến nghị phải sớm thiết lập một cơ sở dữ liệu về đất đai, bất động sản, nhà ở.
“Liên quan đến giá bất động sản, Luật Kinh doanh Bất động sản đã yêu cầu Chính phủ phải can thiệp. Nếu giá bất động sản tăng 20% một quý, Nhà nước phải can thiệp. Vừa rồi, giá đã tăng nhiều hơn 20%; thời gian tới, Chính phủ sẽ tiếp tục can thiệp để giá bất động sản phù hợp, bền vững hơn cho cả người mua lẫn người bán”, ông Lực nói thêm.
Còn theo bà Phạm Thị Miền, thực tế hiện nay nhiều doanh nghiệp rất “muốn” làm nhà ở xã hội vừa để đóng góp một phần cho cộng đồng, vừa để tận dụng các chính sách ưu đãi và đáp ứng nhu cầu về nhà ở rất lớn và ổn định của phân khúc này.
Tuy nhiên, các nơi có cầu và sức mua lớn nhất thì doanh nghiệp rất “khó” làm bởi quy trình thủ tục, pháp lý thực tế phức tạp và không “mặn mà” làm khi giá bán và lợi nhuận bị khống chế quá thấp trong khi chi phí phát triển (đất, xây dựng, lãi vay) liên tục tăng.
Quỹ đất ở khu vực trung tâm ngày càng khan hiếm và đắt đỏ, dù có làm cũng không thể “đủ” để đáp ứng “đòi hỏi” về nhà ở của người dân ngày càng tăng. Nếu phát triển tại các quỹ đất dành cho nhà ở xã hội nằm ở ngoại ô hoặc các khu vực có hạ tầng chưa phát triển thì doanh nghiệp lại “khó” bán bởi khó thu hút người mua.
Theo VARS, để Đề án 1 triệu căn nhà ở xã hội thực sự có cơ hội về đích, Nhà nước cần tiến dần hơn về phía “chủ trì” thay vì chỉ là cơ quan ban hành các cơ chế, chính sách và theo dõi, giám sát như hiện tại.