Điểm mới đáng chú ý trong Dự thảo Luật Khoa học, công nghệ (sửa đổi) và đổi mới sáng tạo là quy định về chấp nhận rủi ro trong hoạt động nghiên cứu và đổi mới.
Đây không chỉ là thay đổi về mặt câu chữ, mà là một sự chuyển dịch lớn trong cách tiếp cận khoa học tại Việt Nam từ tư duy "kế hoạch hóa", "an toàn tuyệt đối", sang môi trường thử nghiệm, chấp nhận sai số, đặc thù vốn gắn chặt với khoa học hiện đại.
Tại báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho biết, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, dự thảo luật đã bổ sung quy định cụ thể về các loại rủi ro, quy trình đánh giá, và đặc biệt là cơ chế bảo vệ người thực hiện nghiên cứu.
Đây là một bước đi đúng hướng. Bởi lẽ, trong khi nhiều quốc gia đã có cơ chế "miễn trừ có điều kiện" cho rủi ro khoa học, thì ở Việt Nam, việc một đề tài thất bại đôi khi vẫn bị quy kết là "lãng phí", "vi phạm", kéo theo hệ quả về pháp lý, tâm lý và thậm chí là sự kỳ thị đối với người làm nghiên cứu.
Điều đáng hoan nghênh là các nhà lập pháp đã thừa nhận "rủi ro là một phần không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học". Nhưng vấn đề đặt ra là, rủi ro như thế nào thì được chấp nhận? Sai số đến đâu là khoa học, và từ đâu là yếu kém trong tổ chức thực hiện? Đây là ranh giới mỏng manh, và nếu không được phân định rõ ràng bằng tiêu chí, quy trình và cơ chế giám sát cụ thể, rất dễ biến tấm "khiên pháp lý" này thành mảnh đất màu mỡ cho sự lạm dụng, trục lợi, và thậm chí là phá hoại môi trường nghiên cứu.
Không phải ngẫu nhiên mà Chủ nhiệm Ủy ban Công tác đại biểu Nguyễn Thanh Hải nhấn mạnh: "Khoa học có thử, có sai, 100 nghiên cứu chỉ có một kết quả đúng, nhưng 99 kết quả sai lại là một tiền đề, nghiên cứu ra sai thì những nhà khoa học khác không đi theo con đường đó nữa. Chúng ta phải làm sao để các nhà khoa học cảm thấy tự tin, miễn là trong sáng, nghiên cứu hết mình và nghiên cứu đúng các quy định pháp luật, tạo ra sức mạnh đột phá trong nghiên cứu”.
Đúng vậy! Chấp nhận rủi ro không có nghĩa là buông lỏng kỷ cương hay từ bỏ hiệu quả. Rủi ro phải được gắn với các quy trình đánh giá độc lập, hồ sơ khoa học đầy đủ, phản biện đa chiều và có hậu kiểm chặt chẽ. Mỗi đề tài thất bại phải để lại dữ liệu, quy trình, phân tích nguyên nhân thất bại, từ đó tạo ra giá trị tri thức dù không đạt được kết quả như kỳ vọng.
Thực tiễn đã có những bài học đắt giá. Như vụ việc hai đề tài nghiên cứu trồng cây dược liệu tại Quảng Ngãi, tiêu tốn hơn 5 tỉ đồng, trong đó gần 3 tỉ đồng từ ngân sách nhà nước, nhưng bị đánh giá không hoàn thành, cây chết hàng loạt, và đang bị cơ quan công an vào cuộc điều tra. Điều đáng nói là doanh nghiệp chủ trì dự án viện dẫn nguyên nhân thất bại do thiên tai, dịch bệnh, mà hoàn toàn không đề cập đến yếu tố chủ quan, năng lực tổ chức hay phương pháp khoa học.
Nếu chúng ta chấp nhận những thất bại như vậy là “rủi ro khoa học”, thì không khác nào đang gửi đi một thông điệp méo mó: Làm khoa học là con đường miễn trách nhiệm. Đây chính là điều luật mới phải ngăn chặn bằng được.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã phát biểu rất rõ: "Cần tăng cường chính sách khuyến khích và hỗ trợ. Nếu chưa đủ, chưa hoàn thiện thì sau phiên họp này phải bổ sung đầy đủ". Điều đó phản ánh kỳ vọng rất lớn của Quốc hội trong việc tạo ra một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo thực chất, thay vì đổi mới theo kiểu "chạy thành tích", "tiêu tiền ngân sách".
Khoa học cần môi trường tự do thử nghiệm, nhưng đồng thời cần hệ quy chiếu đạo đức và kỹ trị cao để những người làm nghiên cứu không nhầm lẫn giữa sáng tạo và cẩu thả, giữa dấn thân và trốn tránh trách nhiệm.
Tại nhiều quốc gia có hệ thống đổi mới sáng tạo phát triển như Israel, Phần Lan, Đức…, cơ chế chấp nhận rủi ro luôn đi kèm với trách nhiệm giải trình minh bạch, đánh giá độc lập, và nghĩa vụ công bố kết quả dù là thành công hay thất bại. Việt Nam nếu muốn “bắt kịp thời đại”, không thể chỉ làm luật để xoa dịu nỗi lo của người làm nghiên cứu, mà cần mạnh mẽ thiết lập cơ chế kiểm tra - phản biện - hậu kiểm - lưu trữ kết quả như một phần bắt buộc trong hệ thống.
Chủ nhiệm Ủy ban Công tác đại biểu Nguyễn Thanh Hải đã nói đúng: “Khoa học cần điểm tựa pháp lý, để nhà khoa học yên tâm mà sáng tạo.” Nhưng người dân cũng cần một điểm tựa để tin rằng mỗi đồng thuế bỏ ra cho khoa học là đầu tư cho tri thức, chứ không phải mất trắng vào những dự án mập mờ, thiếu căn cứ.
Việc dự thảo Luật chỉ quy định miễn trừ trách nhiệm đối với thiệt hại gây ra cho Nhà nước (ngân sách nhà nước, doanh nghiệp nhà nước), nhưng vẫn yêu cầu cá nhân, tổ chức phải bồi thường nếu gây thiệt hại cho người dân, là một điểm chưa thuyết phục. Rủi ro, nếu được công nhận là thuộc tính của nghiên cứu, thì cơ chế miễn trừ hay trách nhiệm cũng phải nhất quán, minh bạch, có điều kiện đi kèm.
Đừng để điều khoản “chấp nhận rủi ro” trở thành “vùng xám” trong pháp lý, nơi nhà khoa học thì không đủ bảo vệ, còn kẻ lợi dụng thì dễ dàng trốn tránh trách nhiệm.
Dự thảo Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo đang mở ra một cánh cửa mới cho môi trường nghiên cứu tại Việt Nam. Nhưng để cánh cửa này không dẫn đến khoảng trống pháp lý hay trở thành tấm màn che cho những sai phạm, chúng ta cần nhiều hơn một đạo luật: đó là một hệ sinh thái pháp lý minh bạch, một văn hóa khoa học dựa trên trách nhiệm và phản biện, và một cơ chế giám sát chặt chẽ nhưng không cản trở đổi mới.
Chấp nhận rủi ro là một tư duy tiến bộ. Nhưng không thể là một đặc quyền vô điều kiện. Luật cần mạnh dạn tạo đột phá, nhưng càng cần mạnh tay ngăn chặn sự nhập nhèm. Bởi vì khoa học, suy cho cùng, không chỉ là để tìm ra cái mới, mà còn để bảo vệ sự thật, dù là từ thành công hay từ sai lầm.