VCCI cho rằng, các quy định cần được điều chỉnh theo hướng minh bạch, giảm tiền kiểm, tăng hậu kiểm, phù hợp với thông lệ quốc tế để vừa bảo đảm quản lý nhà nước vừa thuận lợi cho doanh nghiệp.
Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có văn bản góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá và quy định về nhãn hàng hoá (Dự thảo). Bên cạnh việc đảm bảo tính thống nhất, VCCI cho rằng nhiều quy định trong Dự thảo chưa phù hợp, dễ biến công cụ quản lý thành “gánh nặng” cho doanh nghiệp.
Một trong những nội dung được VCCI nhấn mạnh là quy định tại Điều 4 Dự thảo về tiêu chí xác định mức độ rủi ro sản phẩm, hàng hoá. Theo đó, Điều 4 Dự thảo quy định về các tiêu chí xác định mức độ rủi ro của sản phẩm, hàng hoá. Đối với quy định này, VCCI nhấn mạnh cần có nguyên tắc phân loại rõ ràng, cụ thể theo mô hình kim tự tháp: rủi ro thấp chiếm phần lớn, rủi ro trung bình ít hơn và rủi ro cao là ít nhất. Điều này giúp tránh tình trạng lạm dụng đưa nhiều sản phẩm o nhóm rủi ro cao.
Bên cạnh đó, điểm b khoản 2 Điều 4 Dự thảo quy định về hồ sơ ban hành danh mục sản phẩm, hàng hoá rủi ro, trong đó yêu cầu báo cáo đánh giá rủi ro theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO/IEC 31010 với 4 tiêu chí. Theo phản ánh của các doanh nghiệp, các tiêu chí nêu ra chưa rõ ràng, và chưa phù hợp với TCVN ISO/IEC 31010.
Cụ thể, theo VCCI, Dự thảo chưa nói rõ Đánh giá rủi ro theo TCVN ISO/IEC 31010 là căn cứ theo hệ quả xác suất xảy ra hay các tiêu chí a, b, c, d là không có trong ISO/IEC 31010. Đồng thời, tiêu chí a bản chất là hệ quả, không phải tiêu chí, và rất bất cập khi nêu rất chung chung về hệ quả, không làm rõ là ảnh hướng có lợi hay có hại, trong điều kiện sử dụng đúng hay sử dụng sai, và không hề tính đến xác suất xảy ra.
VCCI đưa ra ví dụ “ảnh hưởng đến nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em, người già, người có bệnh nền, phụ nữ mang thai”, vậy các sản phẩm có lợi cho sức khỏe trẻ em có bị coi là nguy cơ cao không, hay chỉ các sản phẩm có hại cho sức khỏe trẻ em mới là nguy cơ cao...
Vì vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng “Báo cáo đánh giá rủi ro (mức độ rủi ro = hệ quả x xác suất xảy ra) theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO/IEC 31010 hoặc tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 31010, bao gồm. Đồng thời làm rõ tiêu chí đánh giá hệ quả có hại, khả năng kiểm soát trong chuỗi cung ứng và xác suất dựa trên dữ liệu thực tế.
Về quy định nhãn hàng hoá, VCCI cho rằng, nhiều nội dung của Dự thảo chưa phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn sản xuất kinh doanh. Chi tiết các nội dung này được nêu tại Phụ lục đính kèm Công văn này. Đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, điều chỉnh, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế và thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, Dự thảo cần làm rõ nguyên tắc áp dụng quản lý rủi ro trong kiểm tra hàng hoá. Các quy định hiện nay còn thiên về tiền kiểm, gây phát sinh thủ tục. Cụ thể, Điều 86, 87 Dự thảo quy định về miễn, giảm kiểm tra với hàng hoá sản xuất, nhập khẩu. Tuy nhiên, Dự thảo đang thiết kế theo hướng doanh nghiệp phải làm đơn đề nghị và xét duyệt. Quy định này có dạng cơ chế xin cho, trong khi việc quản lý rủi ro có thể sử dụng phân loại tự động theo cơ sở dữ liệu và số hoá thông tin. Hay Điều 88 Dự thảo quy định về kiểm tra về chất lượng hàng hoá xuất khẩu. Hàng hoá xuất khẩu chỉ tuân theo quy định tại nước nhập khẩu và theo hợp đồng với đối tác nhập khẩu. Tuy nhiên, Dự thảo chưa có quy định miễn kiểm tra theo quy định pháp luật Việt Nam. Điều 89 Dự thảo quy định về kiểm tra chất lượng hàng hoá sau lưu thông.
Trước những bất cập nêu trên, VCCI đề nghị bổ sung quản lý rủi ro với ba cấp độ kiểm tra tương ứng ba mức độ rủi ro; bỏ cơ chế doanh nghiệp phải làm đơn xin miễn, giảm kiểm tra, thay bằng phân loại tự động trên hệ thống dữ liệu số hoá; bổ sung quy định miễn kiểm tra đối với hàng hoá xuất khẩu; và quy định hậu kiểm dựa trên quản lý rủi ro với hàng hoá lưu thông.
Một điểm đáng chú ý khác là Điều 57 yêu cầu doanh nghiệp phải đăng ký nhãn điện tử với cơ quan nhà nước. Theo VCCI, quy định này là không cần thiết, tạo thêm thủ tục tiền kiểm, trong khi mục tiêu quản lý có thể đạt được bằng cơ chế thông báo. Hơn nữa, quy định này thiếu linh hoạt do nhiều doanh nghiệp có nhu cầu kết hợp các mã khác nhau lại như mã số mã vạch, mã quét nhãn điện tử để tận dụng không gian bao bì sản phẩm.
VCCI, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng chỉ yêu cầu doanh nghiệp thông báo thông tin trên nhãn điện tử. Doanh nghiệp được tự thiết kế mã QR hoặc định dạng khác, tuỳ thuộc vào nhu cầu.
Ngoài ra, trong thực tế, còn có trường hợp sản phẩm đã có mã số thương phẩm toàn cầu GTIN do tổ chức GS1 cấp và sử dụng trong toàn bộ chuỗi cung ứng hàng hóa. Do vậy, để tránh trùng lặp, phải tạo thêm một mã QR, đề nghị cơ quan soạn thảo cho phép doanh nghiệp dùng chính mã số thương phẩm toàn cầu GTIN in trên nhãn gốc để kết nối với nhãn điện tử.