Kinh tế

Kinh tế Việt Nam 2024: Những nốt thăng trầm

Ngô Đăng Khoa - Vũ Bình Minh (*) 20/12/2024 16:53

Với nền kinh tế mở và hội nhập đa phương diện, không khó để hình dung Việt Nam đã trải qua một năm kinh tế với nhiều nốt thăng trầm.

Năm 2024 khởi đầu với rất nhiều niềm tin về sự phục hồi và hi vọng rằng bức tranh kinh tế toàn cầu sẽ khởi sắc hơn với viễn cảnh Cục dự trữ liên bang Mỹ Fed sẽ sớm bắt đầu chu kỳ hạ lãi suất mạnh mẽ.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy kinh tế thế giới đã trải qua một năm với rất nhiều bất ổn, cùng những biến động khó lường. Căng thẳng địa chính trị kéo dài, xu hướng toàn cầu hoá đảo ngược, các kịch bản xoay quanh cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ cùng nhiều sự kiện kinh tế - chính trị khác đã khiến bức tranh kinh tế vốn đã phân hoá lại trở nên ngày càng phức tạp hơn.

Ảnh màn hình 2024-12-20 lúc 23.59.32
Ngô Đăng Khoa, Giám đốc Khối ngoại hối, thị trường vốn và Dịch vụ chứng khoán Ngân hàng HSBC Việt Nam.

Tại Mỹ, những lo ngại ban đầu về đầu tàu kinh tế của thế giới có khả năng rơi vào suy thoái với cú hạ cánh cứng dường như đã không xảy ra, ngược lại, các số liệu vĩ mô gần đây đặc biệt liên quan tới việc làm, tiêu dùng cho thấy quốc gia này vẫn thể hiện những dấu hiệu tăng trưởng tích cực.

Ngược lại, nền kinh tế lớn khác là Trung Quốc thì đón nhận một kịch bản hoàn toàn đối lập. Kinh tế Trung Quốc gây thất vọng trong năm nay khi trước đó đã có rất nhiều kỳ vọng về sự hồi phục mạnh mẽ sau khi tái mở cửa toàn bộ, trong bối cảnh những khó khăn về lĩnh vực bất động sản, và tiêu dùng trong nước trì trệ dẫn tới lo ngại về nguy cơ giảm phát. Chỉ số niềm tin tại Trung Quốc cũng yếu hơn và có thể có những tác động tiêu cực đến tăng trưởng mà nguyên nhân chính cũng đến từ sự suy yếu trong lĩnh vực bất động sản, yếu tố lớn nhất ảnh hưởng đến niềm tin và chi tiêu của người tiêu dùng.

Quay trở lại với bức tranh kinh tế trong nước, với nền kinh tế mở và hội nhập đa phương diện, không khó để hình dung Việt Nam cũng trải qua một năm kinh tế với nhiều nốt thăng trầm.

Sau khởi đầu khó khăn trong quý 1, bức tranh kinh tế trong nước đa phần đã tích cực hơn khi đà phục hồi dần vững chắc qua các tháng của năm, nhanh chóng đưa Việt Nam trở lại như một ngôi sao tăng trưởng trong khối ASEAN.

Cụ thể, tăng trưởng được cải thiện và bất ngờ tăng lên lần lượt 6,9% trong quý 2 và 7,4% trong quý 3 năm 2024 so với cùng kỳ năm trước. Sự phục hồi đã bắt đầu mở rộng ra các lĩnh vực khác không chỉ ở ngành điện tử tiêu dùng, mặc dù tiêu dùng trong nước vẫn chưa quá tích cực bất chấp đã chứng kiến ​​những cải thiện gia tăng.

Ảnh màn hình 2024-12-20 lúc 23.59.35
Vũ Bình Minh - CFA, Giám Đốc Kinh Doanh Trái Phiếu và Sản Phẩm Lãi Suất, Khối Thị Trường Vốn và Dịch vụ Chứng Khoán Ngân hàng HSBC Việt Nam.

Đã có những lo ngại rằng tác động của bão Yagi, cơn bão mạnh nhất mà Việt Nam phải đối mặt trong 70 năm qua, sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng.

Theo các thống kê, các tỉnh phía bắc bị ảnh hưởng đặc biệt nặng nề vào đầu tháng 9 với thiệt hại ước tính lên tới hơn 3 tỷ đô la Mỹ. Tuy nhiên, tác động chủ yếu tập trung vào ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Trong khi đó, sản xuất và thương mại vẫn kiên cường và tiếp tục dẫn đầu quá trình phục hồi.

Cụ thể hơn, đà tăng tốc của tiến trình hồi phục kinh tế trong nửa sau của năm nay tiếp tục được dẫn dắt bởi sản xuất, với mức tăng trưởng của chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP) tính chung 11 tháng tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước.

Kết quả này cũng được củng cố bởi dữ liệu thương mại tích cực, với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hoá tính chung 11 tháng năm 2024 tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước.

Điều đáng khích lệ là sự phục hồi thương mại ban đầu tập trung vào điện tử đang cho thấy dấu hiệu mở rộng, với xuất khẩu hàng dệt may và giày dép tăng 16,7% so với cùng kỳ năm trước trong quý 3.

Về lĩnh vực vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI), Việt Nam tiếp tục thu hút dòng vốn nước ngoài khi triển vọng cơ bản vẫn tích cực. Mặc dù tăng trưởng FDI mới đăng ký chậm lại trong quý 3, các lĩnh vực ngoài sản xuất như bất động sản và năng lượng đã chứng kiến ​​sự gia tăng đầu tư.

Vốn FDI thực hiện tại Việt Nam 11 tháng năm 2024 ước đạt 21,68 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước. Đây cũng là năm thứ ba liên tiếp Việt Nam đạt mức giải ngân FDI trên 20 tỷ USD. Các khoản đầu tư nội khối ASEAN đang dẫn đầu, chiếm 40% dòng vốn đổ vào cho đến nay.

Các doanh nghiệp FDI hiện hữu tiếp tục đưa ra các cam kết về đầu tư thêm vốn dự án, hỗ trợ năng lực sản xuất đang mở rộng của Việt Nam. Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực bất động sản cũng đã tăng trong những tháng gần đây.

Điều này có thể được hỗ trợ bởi Luật đất đai sửa đổi có hiệu lực vào tháng 8, chuẩn hoá một số quy định để thúc đẩy nhu cầu. Nhìn về phía trước, dòng vốn FDI vào lĩnh vực sản xuất cũng có khả năng vẫn tiếp tục tăng trưởng, với chuyến thăm gần đây của Tổng Bí thư Tô Lâm tới Hoa Kỳ đã mở ra ý định đầu tư từ nhiều công ty, điển hình như Meta.

Shunsin, một công ty con của Foxconn, được cho là đã xin giấy phép đầu tư 80 triệu đô la Mỹ để sản xuất mạch tích hợp tại tỉnh Bắc Giang, cho thấy năng lực sản xuất tại Việt Nam đang được cải thiện.

Không chỉ riêng sản xuất điện tử mà cả những lĩnh vực giá trị công thêm cao cũng đã thu hút sự quan tâm từ các tập đoàn đa quốc gia lớn như Google dự định mở văn phòng tại Việt Nam vào tháng 4/2025 và NVIDIA mở trung tâm R&D để phát triển ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) ở Việt Nam.

Những nỗ lực liên tục nhằm tích cực tăng cường quan hệ ngoại giao về cả chiều rộng và chiều sâu với các đối tác quốc tế cũng sẽ đóng vai trò là động lực thúc đẩy dòng vốn đầu tư tiếp theo, với việc Việt Nam gần đây đã nâng cấp quan hệ với Pháp lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, và đồng thời thỏa thuận đối tác kinh tế toàn diện với Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE).

Ở phía ngược lại, kinh tế Việt Nam vẫn còn những nốt trầm đáng chú ý. Theo thống kê, Việt Nam là nền kinh tế chịu ảnh hưởng nhiều nhất trong các nước ASEAN từ ​​nhu cầu tiêu dùng của Hoa Kỳ. Với việc các chỉ số liên quan tiêu dùng của Mỹ cao hơn các dự báo phần nào giải thích tại sao xuất khẩu sản xuất của Việt Nam vẫn là ngành có khả năng phục hồi tích cực nhất trong thời gian gần đây.

Tuy nhiên, mặt trái của điều này là Việt Nam sẽ dễ bị tổn thương nhất trước sự chậm lại trong chi tiêu của hộ gia đình Mỹ, cũng như sự thay đổi trong chính sách thương mại của Hoa Kỳ nhằm ngăn chặn việc nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc được vận chuyển đến Hoa Kỳ từ các "nền kinh tế trung gian".

Việt Nam có mức độ xuất khẩu cao nhất vào thị trường Hoa Kỳ, dẫn đầu là hàng dệt may, giày dép, đồ nội thất bằng gỗ và máy móc. Với việc Tổng thống mới đắc cử Donald Trump lên nắm quyền, các chính sách liên quan đến thương mại và hàng rào thuế quan có thể là những thách thức cho những dự báo về tăng trưởng thương mại trong tương lai gần.

Bên cạnh đó, một trong những trụ cột còn lại là tiêu dùng bán lẻ trong nước đang phục hồi chậm hơn dự kiến ​​ban đầu, với mức tăng trưởng doanh số bán lẻ vẫn thấp hơn xu hướng trước đại dịch và sự phục hồi chưa mấy rõ rệt.

Lĩnh vực dịch vụ tiếp tục hỗ trợ doanh số bán lẻ khi số lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 11/2024 tăng cao, đạt 1,7 triệu lượt người, đưa mức chung 11 tháng năm nay đạt hơn 15,8 triệu lượt khách, tăng 41% so với cùng kỳ năm trước. Điểm đáng khích lệ là Chính phủ đã đưa ra các biện pháp hỗ trợ nhiều lĩnh vực trong nước.

Việc cắt giảm thuế môi trường đối với nhiên liệu và cắt giảm thuế giá trị gia tăng đối với một số hàng hóa và dịch vụ sẽ kéo dài đến cuối năm 2024, trong khi Luật Đất đai sửa đổi có hiệu lực từ tháng 8 được kỳ vọng sẽ góp phần củng cố triển vọng cho thị trường bất động sản.

Chính sách tài khóa và tiền tệ có khả năng sẽ vẫn mang tính thích ứng để giúp tăng tốc quá trình phục hồi kinh tế, nhằm đưa Việt Nam đạt được những mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà Chính phủ đã đề ra cho năm nay, tạo tiền đề vững chắc cho năm sắp tới.

Về thị trường tiền tệ, dựa vào diễn biến giá thuận lợi hơn đặc biệt là giá dầu và giá hàng hoá, lạm phát đã cho thấy sự điều tiết đáng kể trong những tháng gần đây.

Trong khi các rủi ro như gián đoạn nguồn cung từ bão Yagi và xung đột địa chính trị vẫn hiện hữu, lạm phát thấp hơn nhiều so với mức trần mục tiêu 4,5% của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) sẽ cho phép NHNN duy trì lập trường điều hành theo hướng hỗ trợ và tập trung vào việc hỗ trợ tăng trưởng, từ đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tiếp tục kiềm chế lạm phát.

Về tỷ giá, cặp tỷ giá USD-VNĐ tiếp tục chứng kiến một năm với rất nhiều biến động khó lường. Cũng như nhiều loại tiền tệ khác trong khu vực, ngoại tệ của các quốc gia trong khu vực trong đó có Việt Nam đang đứng trước nhiều biến số khó lường trong thời gian gần đây do những nhiễu động trước thềm bầu cử Tổng thống Mỹ, các gói kích thích kinh tế của Trung Quốc và các căng thẳng địa chính trị khác.

Để tóm tắt diễn biến tỷ giá năm nay, có thể chia làm ba giai đoạn tương ứng với ba quý gần nhất.

Trong đầu quý 2, USD-VNĐ đã tăng giá mạnh từ mức 24.650 lên mức cao nhất năm 25.460 chỉ trong vỏn vẹn gần 2 tháng, tương đương mức mất giá hơn 3%. Trong giai đoạn đó, kỳ vọng cắt giảm lãi suất của Fed giảm, khiến khác biệt về chính sách điều hành trở nên rõ nét và đưa chênh lệch lãi suất VNĐ – USD tăng cao, dữ liệu tiếp tục vượt trội ở Mỹ và rủi ro địa chính trị đã hỗ trợ đồng bạc xanh trong suốt thời gian đó.

Để hỗ trợ thị trường, NHNN đã phải can thiệp thông qua nghiệp vụ bán USD từ dự trữ ngoại hối cũng như phát hành tín phiếu ngắn hạn nhằm giảm đà tăng của tỷ giá.

Bước sang quý 3, xu hướng đảo chiều khi USD-VNĐ giảm giá mạnh trở lại về mức 24.600, tương đương mức mất giá chỉ còn 1,3% tại thời điểm cuối tháng 9. Nhờ vào các biện pháp hỗ trợ thị trường từ cơ quan điều hành, cũng như việc NHTW Mỹ Fed hạ lãi suất lần đầu tiên đưa chỉ số dollar hạ nhiệt, đồng thời góp phần giúp thu hẹp chênh lệch lãi suất VNĐ-USD.

Tuy nhiên, bước sang quý 4, câu chuyện về áp lực tỷ giá tăng quay trở lại. Tính riêng trong tháng 10 vừa qua, các loại tiền tệ châu Á trung bình đã giảm hơn một nửa mức tăng trong quý 3 so với đồng USD trong bối cảnh đồng bạc xanh nhanh chóng phục hồi lại sức mạnh.

Quan sát một cách tổng thể, một số loại ngoại tệ chịu ảnh hưởng tiêu cực hơn khi dòng vốn chảy ra – ví dụ, cặp USD-INR đạt mức cao kỷ lục mới, trong khi cặp USD-KRW hiện đang ở gần mức cao nhất trong năm.

Tương tự, tỷ giá USD-VNĐ tiếp tục tăng nhanh và mạnh quay trở lại gần mức đỉnh cũ của năm nay là 25.450. Những biến số trước thềm bầu cử Tổng thống Mỹ cho tới khi ông Donald Trump đắc cử, cùng những số liệu kinh tế khả quan, đặc biệt liên quan tới việc làm, của Mỹ thời gian qua thổi bùng lên đà tăng giá chỉ số USD, cũng như hạ đi kỳ vọng về cường độ giảm lãi suất của Fed trong chu kỳ mới này.

Tương tự như những giai đoạn trước, NHNN đã áp dụng chính sách điều hành tỷ giá linh hoạt thông qua việc đặt giá bán USD hỗ trợ thị trường tại mức 25.450 đồng thời tiếp tục giới thiệu lại công cụ phát hành tín phiếu nhằm điều tiết nguồn vốn trên thị trường liên ngân hàng, qua đó gián tiếp góp phần củng cố niềm tin thị trường và giảm áp lực lên tỷ giá.

Vào thời điểm này ngay cả khi sự kiện bầu cử Tổng thống Mỹ đã qua, vẫn là rất khó khăn để đặt ra được một kịch bản rõ nét nào về diễn biến của tỷ giá trong thời gian sắp tới.

Về lãi suất, trong bối cảnh Chính phủ quyết tâm đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng đã đề ra trong năm nay, NHNN đứng trước nhiệm vụ tương đối nặng nề khi điều hành chính sách tiền tệ theo hướng hỗ trợ tăng trưởng thông qua phấn đấu giảm lãi suất cho vay, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng.

Tuy nhiên, khi tỷ giá đứng trước áp lực tăng, chính sách tiền tệ của Mỹ và các quốc gia vẫn chưa chuyển hướng rõ rệt đặt ra rất nhiều thách thức để hoàn thành nhiệm vụ này. Trên thực tế, mặt bằng lãi suất trên thị trường liên ngân hàng liên tục đứng trước áp lực tăng.

Cụ thể, lãi suất bình quân liên ngân hàng VND đã có phiên tăng mạnh ở các kỳ hạn từ 1 tháng trở xuống vào đầu tháng 11, trong đó lãi suất qua đêm lên mức 6,2%/năm, cao nhất kể từ đầu năm 2024 đến nay.

Kể từ đầu tháng 10 đến nay, NHNN cùng lúc phải áp dụng linh hoạt các công cụ điều hành thanh khoản để giải quyết vấn đề ổn định tỷ giá thông qua nghiệp vụ phát hành tín phiếu và đồng thời đảm bảo thanh khoản cho hệ thống thông qua kênh hoạt động thị trường mở.

(*) Nhóm chuyên gia thuộc Khối ngoại hối, thị trường vốn và Dịch
vụ chứng khoán của Ngân hàng HSBC Việt Nam: Ngô Đăng Khoa - Giám đốc Khối ngoại hối, thị trường vốn và Dịch vụ chứng khoán; Vũ Bình
Minh - CFA, Giám Đốc Kinh Doanh Trái Phiếu và Sản Phẩm Lãi Suất, Khối Thị Trường Vốn và Dịch vụ Chứng Khoán

(0) Bình luận
Nổi bật
Mới nhất
Kinh tế Việt Nam 2024: Những nốt thăng trầm
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO