Tròn 1/4 thế kỷ phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam và gần 40 năm thị trường tài chính hậu đổi mới đã hội nhập, năng lực nền tảng và
quản trị tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam có những bước tiến đáng kể.
Việc nâng hạng từ thị trường cận biên lên mới nổi thứ cấp theo chuẩn FTSE Russell của TTCK Việt Nam không chỉ là bước ngoặt minh chứng Việt Nam hội nhập, mà còn là động lực để doanh nghiệp Việt tiếp tục lớn mạnh cả về quy mô, năng lực vốn, lẫn vị thế, điểm đến thu hút đầu tư.
Trong các nền kinh tế nói chung, sự phân chia doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) theo từng cụm thành phần và trên quy mô, nguồn vốn khá rõ ràng. Tuy nhiên, khối doanh nghiệp niêm yết nhìn chung có sự nổi trội về quy mô vốn hơn (dù vẫn ở trong khu vực SMEs), năng lực quản trị doanh nghiệp, quản trị tài chính, rủi ro tốt hơn, hoạt động kinh doanh và đóng góp thuế, an sinh việc làm... cũng tốt hơn. Nói cách khác, khu vực doanh nghiệp niêm yết hơn 1.700 doanh nghiệp trên 3 sàn, khá nổi bật và có tính đại diện cho nền kinh tế Việt Nam, vượt hơn khu vực SME ở phía quy mô thấp và nhóm siêu nhỏ, hộ kinh doanh...
Trước hết, doanh nghiệp niêm yết đóng góp tỷ trọng lớn cho GDP. Trong đó, top 50-100 doanh nghiệp niêm yết hàng đầu đóng góp dẫn đầu vào tăng trưởng GDP và ngân sách Nhà nước. Một số liệu thống kê tại ngày 15/9/2025 cho thấy, chỉ tính riêng vốn hóa của 50 doanh nghiệp dẫn đầu, đã đạt 155 tỷ USD, chiếm hơn 50% tổng vốn hóa các doanh nghiệp niêm yết, tương đương hơn 1/3 GDP cả nước năm 2024. Trong đó, có 31 doanh nghiệp đạt vốn hóa trên 1 tỷ USD, tăng thêm 8 doanh nghiệp so với năm trước.
Theo thống kê, trong năm 2024, tổng thu ngân sách Nhà nước của Việt Nam lần đầu tiên vượt 2 triệu tỷ đồng, tăng hơn 20% so với dự toán. Trong đó, không thể không kể đến đóng góp của những doanh nghiệp tư nhân hàng đầu đất nước như Vingroup, Hòa Phát, Thế giới Di động, FPT, Masan, Vietjet,… Bên cạnh đó là những doanh nghiệp Nhà nước như PVN, Viettel, Petrolimex và Vinacomin...
Đáng chú ý, nhóm đóng thuế cho ngân sách Nhà nước lớn phải kể đến khu vực ngân hàng, trong đó theo số liệu từ PRIVATE 100, 20 ngân hàng tư nhân hàng đầu đã nộp ngân sách tổng đạt 47.300 tỷ đồng, tăng hơn 5.400 tỷ đồng (khoảng 13%) so với 41.900 tỷ đồng năm 2023, và cao gấp rưỡi mức 30.900 tỷ đồng năm 2022.
Ở góc độ nâng cao năng tài chính bao gồm quản trị tài chính, quản trị rủi ro, tính đại diện của các doanh nghiệp niêm yết với nền kinh tế cũng thể hiện qua những đặc thù cụ thể.
Thứ nhất, về chuẩn mực kế toán, hiên nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa áp dụng chuẩn kế toán IFRS. Định hướng sau năm 2025, Việt Nam sẽ bắt buộc các doanh nghiệp niêm yết thực hiện chuẩn này, từ đó tiến đến đáp ứng theo chuẩn quốc tế.
Thứ hai, về cơ cấu đòn bẩy, các doanh nghiệp niêm yết đã tận dụng rất tốt vai trò của thị trường vốn. Tuy nhiên, khu vực doanh nghiệp có tính đại diện cao này cũng thể hiện sự phụ thuộc lớn vào thị trường vốn nợ, bên cạnh vốn vay ngân hàng. Cả 2 nguồn vốn đều có tỷ trọng cao (tùy thuộc ngành) trong cơ cấu vốn của các doanh nghiệp niêm yết. Với vốn ngân hàng, tỷ trọng tín dụng/GDP trên 134%, trong đó cấu phần vốn dành cho doanh nghiệp cao, dẫn đến tỷ lệ vốn vay trên GDP của Việt Nam cao hơn trung bình toàn cầu.
Nói cách khác, năng lực về đòn bẩy tài chính từ vốn vay của Việt Nam vẫn ở mức cao trong đòn bẩy tài chính ở vốn nợ phân hóa theo nhóm bất động sản, tài chính, hạ tầng, năng lượng... Trong khi đó, nhóm phi tài chính, sản xuất chưa phát huy được hiệu quả của thị trường vốn. Đây vừa là bất cập, vừa là vấn đề đã được nhận diện, và trở thành mục tiêu để phát triển thị trường vốn của Việt Nam theo đề án đã được phê duyệt.
Thứ ba, về vai trò các nhà quản trị tài chính, doanh nghiệp niêm yết có những thay đổi dần khác đặc biệt so với trước 2018, khi vai trò của Giám đốc tài chính và Kế toán trưởng chưa được tách bạch. Theo chuẩn mực quốc tế, sự tách bạch vị trí, nhiệm vụ này rất cần thiết để phát huy kế hoạch huy động, sử dụng dòng tiền, quản trị tài chính, đặc biệt ở góc độ huy động vốn cho các kế hoạch đầu tư.
Thứ tư, từ đầu năm 2025, các doanh nghiệp đã đẩy mạnh xếp hạng tín nhiệm, điều mà trước đây chỉ những ngân hàng hay những tập đoàn lớn mới quan tâm và được xếp hạng theo chuẩn S&P, Moody’s. Cũng phải nói rằng cùng với đó, có bước thúc đẩy của chính sách để các tổ chức xếp hạng tín nhiệm trong nước kết hợp cùng sự hậu thuẫn của các định chế xếp hạng toàn cầu, tăng tốc cung cấp dịch vụ. Sự đổi mới này quan trọng vì cho thấy doanh nghiệp đã ý thức về minh bạch trong hành trình thực thi mục tiêu huy động.
Thứ năm, doanh nghiệp chủ động tiếp xúc nhà đầu tư và tăng cường quan hệ nhà đầu tư. Trước đây, chỉ những doanh nghiệp lớn mới thực hiện roadshow quốc tế, tiếp xúc nhà đầu tư ngoại, xây dựng bộ phận IR bài bản.
Sự hạn chế của giai đoạn trước đã hoàn toàn thay đổi sau 25 năm TTCK phát triển và số lượng doanh nghiệp đại chúng ngày càng đông đảo hơn, việc chủ động tiếp xúc, công bố thông tin doanh nghiệp đến nhà đầu tư được thực hiện ở cả nhóm large cap, midle cap, small cap. Nhiều doanh nghiệp cũng đã thực hiện báo cáo phát triển bền vững độc lập.
Dĩ nhiên, nếu so với các thị trường lâu năm như Singapore, Thái Lan, Malaysia, những bước tiến về nâng tầm nền tảng, năng lực vốn và quản trị tài chính của doanh nghiệp Việt vẫn cần phải tiếp tục thúc đẩy, tiếp tục hoàn thiện. Triển vọng nâng hạng từ thị trường cận biên lên Mới nổi thứ cấp theo chuẩn FTSE Russell của TTCK Việt Nam vừa được hiện thực hóa vào 8/10/2025 - là cột mốc lớn.
Đó không chỉ là bước ngoặt minh chứng Việt Nam hội nhập, tiến sâu thị trường tài chính toàn cầu, còn là cánh cửa và động lực để doanh nghiệp Việt tiếp tục lớn mạnh cả về quy mô, năng lực vốn, lẫn vị thế - điểm đến thu hút đầu tư quốc tế.