“Để ngăn sở hữu chéo, cần làm rõ đối tượng “người có liên quan” trong dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi với Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp và Luật Hôn nhân và Gia đình…”.
Đây là chia sẻ của TS Vũ Nhữ Thăng, Phó Chủ tịch phụ trách Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia xung quanh câu chuyện ngăn sở hữu chéo và xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng.
>>Ngăn sở hữu chéo trong ngân hàng: Cần tăng chế tài xử phạt
Theo TS Vũ Nhữ Thăng, việc quy định giảm tỷ lệ sở hữu tối đa của một cá nhân từ 5% xuống 3% vốn điều lệ, sở hữu của một cổ đông từ tổ chức, giảm từ 15% xuống 10%, hay nhóm cổ đông liên quan từ 20% xuống 15% như quy định của dự thảo sẽ không có nhiều ý nghĩa để hạn chế sở hữu chéo.
Lý giải về điều này, ông Thăng cho biết, nếu cổ đông sử dụng mô hình “cá nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên do cá nhân đó làm chủ” hoặc “cá nhân và công ty cổ phần chưa niêm yết với tỷ lệ sở hữu cổ phần của cá nhân đó trên 65%. Thông qua người có liên quan và mối quan hệ thành viên gia đình nhưng không bị giới hạn bởi quy định của người có liên quan tại Luật các tổ chức tín dụng.
Các công ty có xu hướng không minh bạch thông tin liên quan đến chủ sở hữu và giao dịch có liên quan đến chủ sở hữu và người có liên quan. Thiếu thông tin về các cổ đông tổ chức nắm giữ tỷ lệ sát ngưỡng 5% để tránh các quy định công bố thông tin về cổ đông lớn, thường là công ty TNHH và cổ phần chưa niêm yết/không phải là công ty đại chúng. Công bố thông tin của loại hình công ty TNHH, công ty hợp danh và công ty cổ phần chưa niêm yết thiếu, ngay cả khi cung cấp cho các cơ quan quản lý. Thiếu quy định về công bố thông tin cổ đông lớn là cá nhân.
Việc các cổ đông cá nhân tăng sở hữu thực tế thông qua mối quan hệ thành viên gia đình là "hàng cháu” đã tránh được các quy định về người có liên quan nên không phải công khai thông tin của các cổ đông “hàng cháu”. Điều này dẫn đến không đảm bảo được tính minh bạch trong hoạt động ngân hàng, gây khó khăn trong hoạt động quản lý, kiểm tra, giám sát quyền “chi phối” thực sự của ngân hàng. Một số trường hợp như đứng tên hộ, sử dụng “công ty bình phong”… chỉ có thể được phát hiện và nhận diện thông qua công tác điều tra, xác minh của cơ quan điều tra.
Do đó, TS Vũ Nhữ Thăng nhận định, việc “hạn chế sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng” thì yếu tố hàng đầu là phải xác định được cá nhân/tổ chức là chủ sở hữu thực sự của ngân hàng. Nói cách khác, khuôn khổ pháp lý cần thiết kế nhằm xác định được cá nhân/tổ chức nắm quyền chi phối, ảnh hưởng đến việc ra quyết định trong hoạt động của ngân hàng đó, tức là làm minh bạch thông tin của tất cả các cá nhân, tổ chức là cổ đông của ngân hàng thương mại thay vì giảm tỷ lệ sở hữu.
>>Ngăn sở hữu chéo trong ngân hàng: Cần trao chức năng điều tra cho cơ quan giám sát
Do đó, để hạn chế sở hữu chéo và xử lý được nợ xấu tại các tổ chức tín dụng, TS Thăng đề xuất làm rõ đối tượng “người có liên quan” trong dự thảo Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi với Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp và Luật Hôn nhân và Gia đình (Khoản 16 Điều 3).
Đồng thời, rà soát bổ sung các quy định về công bố thông tin. Quy định về công bố thông tin của tổ chức tín dụng (đặc biệt là ngân hàng thương mại) cần phải được quy định chặt chẽ hơn so với các công ty đại chúng, công ty niêm yết theo Luật chứng khoán 2019 (Luật Chứng khoán hiện hành yêu cầu công bố thông tin của cổ đông lớn, nhóm người có liên quan sở hữu từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty đại chúng...). Nghiên cứu bổ sung quy định nghĩa vụ công bố thông tin đối với cổ đông (cả tổ chức và cá nhân) và nhóm người có liên quan sở hữu cổ phần của tổ chức tín dụng trên một mức cụ thể.
Đồng quan điểm và đưa ra đề xuất mô hình giám sát hoạt động ngân hàng, TS Hồ Quốc Tuấn - Đại học Bristol (Anh) cho rằng, có 2 nội dung cần quan tâm. Thứ nhất, mô hình giám sát theo nghành. Theo mô hình này, một cơ quan quản lý ngành tài chính (Ngân hàng Nhà nước) chịu trách nhiệm về tính an toàn và giám sát hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Một cơ quan có thẩm quyền khác có nhiệm vụ tương tự đối với các công ty bảo hiểm. Cơ quan thứ ba chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Thứ hai, mô hình đỉnh đôi, hay ba là mô hình tích hợp. Theo đó, các ngân hàng trung ương hoặc cơ quan giám sát đồng thời là cơ quan chủ chốt giám sát an toàn vi mô đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán; và cũng là người giám sát hoạt động kinh doanh, có thể chịu trách nhiệm chính hoặc chia sẻ trách nhiệm với các ngân hàng, công ty bảo hiểm và chứng khoán.
Có thể bạn quan tâm
Ngăn sở hữu chéo trong ngân hàng: Cần tăng chế tài xử phạt
00:30, 06/06/2023
Ngăn sở hữu chéo trong ngân hàng: Cần trao chức năng điều tra cho cơ quan giám sát
03:50, 04/06/2023
“Gỡ rối” sở hữu chéo ngân hàng: Cần tăng quyền cho cơ quan thanh tra, giám sát
03:30, 25/05/2023
Sửa Luật Các tổ chức tín dụng: “Ngăn” sở hữu chéo, “chặn” thao túng ngân hàng
03:50, 02/04/2023