TÁI CẤU TRÚC NỀN KINH TẾ: Không gian kinh tế mới cho doanh nghiệp tư nhân
Trong thập niên vừa qua, nhìn lại quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam có thể thấy rằng, nền kinh tế có sự thay đổi lớn về cấu trúc.
>>>TÁI CẤU TRÚC NỀN KINH TẾ: Nâng cao vai trò của lãnh đạo trong chuyển đổi số
Trao đổi tại Diễn đàn “Tái cấu trúc nền kinh tế giai đoạn 2021-2025: Những vấn đề đặt ra với doanh nghiệp”, ông Lê Duy Bình – Chuyên gia kinh tế - Giám đốc Ecomomica Việt Nam cho biết: Trong giai đoạn năm 2010-2020 theo số liệu của Tổng cục Thống kê, khu vực Nông, lâm, thủy sản; Công nghiệp và xây dựng; Dịch vụ có sự thay đổi lớn. Ngành Nông, lâm, thủy sản dù giá trị gia tăng cao hơn nhưng tỷ trọng thấp hơn. Công nghiệp và xây dựng, xây dựng đóng vai trò cao hơn. "Quá trình này có sự đóng góp rất lớn của khu vực doanh nghiệp", ông Bình nhấn mạnh.
Theo Giám đốc Ecomomica Việt Nam, hơn 3 thập niên vừa qua từ năm 1991-2020, vai trò của doanh nghiệp cũng thay đổi. Năm 1991 khi chúng ta bắt đầu có Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân cho phép Khu vực tư nhân bắt đầu phát triển đến nay, số lượng doanh nghiệp phát triển rất mạnh mẽ. Trung bình giai đoạn 1991-2005 mỗi năm có 26.817 doanh nghiệp được thành lập; Giai đoạn 2005-2014 là 70.900 doanh nghiệp và ở giai đoạn 2015-2020 con số đã tăng lên 122.500 doanh nghiệp.
"Có thể nói doanh nghiệp đóng góp rất lớn vào quá trình tái cấu trúc của nền kinh tế của Việt Nam thời gian qua. Và tái cấu trúc nền kinh tế của Việt Nam không chỉ thể hiện ở cơ cấu GDP mà còn thể hiện ở sự khác biệt GTGT của các nền kinh tế khác nhau", ông Bình nói. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Duy Bình, mặc dù, số lượng doanh nghiệp tăng lên nhưng vẫn có những vấn đề mang tính chất cơ cấu đối với doanh nghiệp Việt Nam.
Dẫn chứng cho điều này, ông Bình cho biết, theo số liệu của Cục quản lý đăng kí kinh doanh của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam hiện có khoảng 1,4 triệu doanh nghiệp đăng kí. Tuy nhiên, số liệu năm 2019 cho thấy chỉ có khoảng 758 ngàn doanh nghiệp hoạt động. "Như vậy, có một khoảng cách rất lớn giữa doanh nghiệp đăng kí thành lập và doanh nghiệp thực sự hoạt động. Doanh nghiệp không còn tồn tại còn rất lớn", ông Bình nói và cho rằng, giai đoạn tới cần thiết phải nâng tỷ trọng doanh nghiệp hoạt động lên.
- TÁI CẤU TRÚC NỀN KINH TẾ: Gắn trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực với doanh nghiệp
- [TRỰC TIẾP] Diễn đàn "Tái cấu trúc nền kinh tế giai đoạn 2021-2025: Những vấn đề đặt ra với doanh nghiệp"
Về cơ cấu phân bố doanh nghiệp hiện nay, ông Bình thông tin, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam nằm trong lĩnh vực dịch vụ trong đó tập trung bán buôn, bán lẻ và sửa chữa nhỏ, giá trị gia tăng rất thấp. Doanh nghiệp thành lập mới của khối doanh nghiệp này mỗi năm gần 100 ngàn doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Trong khi đó, lĩnh vực Công nghiệp xây dựng con số này thấp hơn và đến doanh nghiệp lĩnh vực nông, lâm, thủy sản mỗi năm chỉ có chưa đến 2.000 doanh nghiệp thành lập.
"Cơ cấu của doanh nghiệp như vậy đã phù hợp hay chưa? Chúng ta đã quan tâm tới các doanh nghiệp nông nghiệp hay chưa? Cần có biện pháp để phát triển các doanh nghiệp ở nông thôn như thế nào để đưa Việt Nam trở thành quốc gia có vị trí trên trường quốc tế về nông nghiệp, chế biến nông lâm thủy sản?" ông Bình đặt câu hỏi.
Và theo ông: "Đây là vấn đề trong cơ cấu doanh nghiệp Việt Nam mà chúng ta phải tạo ra một không gian mới trong việc cấu trúc lại nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo."
Ở góc độ lao động, theo ông Bình, doanh nghiệp Việt Nam đã đóng góp rất lớn. Nếu như không có 810 ngàn doanh nghiệp hoạt động trong thời gian vừa qua chúng ta không thể có 15 triệu lao động hoạt động. Đóng góp của doanh nghiệp thời gian qua cho quá trình tái cấu trúc thị trường lao động là rất lớn khi đưa 1 bộ phận lớn người lao động vào khu vực chính thức, nâng cao thu nhập của người lao động, nâng cao an sinh xã hội,...
Tuy nhiên, ông Bình đặt vấn đề, mặc dù chúng ta có 15 triệu lao động nhưng còn 14% lao động chưa tham gia BHXH. Điều này đánh giá chất lượng lao động, chất lượng việc làm trong khu vực doanh nghiệp và cần xử lý trong giai đoạn tới khi chúng ta cấu trúc lại nền kinh tế, cấu trúc lại thị trường lao động.
Một vấn đề khác ông Bình nhấn mạnh đó là gần như 100% người lao động, hộ kinh doanh các thể hiện không tham gia BHXH. "Doanh nghiệp chúng ta không thể loại trừ hộ kinh doanh cá thể - một lực lượng lớn dự bị trở thành doanh nghiệp trong tương lai. Bản thân họ cũng là doanh nghiệp nhỏ sẽ đóng góp lớn trong chuyển đổi lao động chính thức", ông Bình nói.
Hiện nay, năng suất lao động của Việt Nam được đánh giá rất thấp trong khu vực Đông Nam Á, theo ông Bình, đây là vấn đề cần đặt ra để doanh nghiệp xử lý.
Một vấn đề nữa là thiếu vắng doanh nghiệp cỡ vừa. "Theo tiêu chí đánh giá dựa trên Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, chúng ta có hơn 800 nghìn doanh nghiệp có khoảng 17 ngàn doanh nghiệp lớn, 21 ngàn doanh nghiệp vừa. Tuy nhiên, khi phát triển doanh nghiệp với 1 quốc gia bình thường người ta coi trọng phát triển doanh nghiệp vừa. Tuy nhiên ở Việt Nam thiếu các doanh nghiệp vừa trong khi chúng ta phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ", ông Bình nói.
Ông Bình nhận định, những doanh nghiệp vừa mới có nhiều tiềm năng để trở thành doanh nghiệp lớn, có khả năng đầu tư R&D, tăng quy mô,.. "Vì vậy, cần xem xét lại làm sao để hình thành doanh nghiệp cỡ vừa như thế nào, không thể để cấu trúc doanh nghiệp Việt Nam lệch như hiện nay. Và để sau khoảng 10 năm nữa để bức tranh doanh nghiệp Việt Nam thay đổi", ông Bình nói.
Số liệu của Tổng cục Thống kê, 98% doanh nghiệp của chúng ta là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Càng nhỏ thua lỗ càng lớn. Nhất là doanh nghiệp đầu tư vào nông lâm nghiệp rất khó về lợi nhuận. Theo tài liệu Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2019, doanh nghiệp siêu nhỏ thua lỗi tới 71,3 ngàn tỷ đồng, doanh nghiệp nhỏ thua lỗ khoảng 3,4 nghìn tỷ đồng; doanh nghiệp vừa có lãi 27,1 tỷ đồng, doanh nghiệp lớn lãi 937,4 nghìn tỷ đồng.
“Muốn có một khu vực doanh nghiệp bền vững, đóng góp cho nền kinh tế một cách bền vững, chúng ta cần phải chú ý đến khả năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ”, ông Bình nhấn mạnh.
Trong các ngành kinh tế, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, công nghiệp và xây dựng có lãi nhưng những doanh nghiệp trong lĩnh vực nông lâm nghiệp và thủy sản tỷ lệ lỗ rất cao, toàn ngành lỗ 0,5 ngàn tỷ đồng.
Về loại hình doanh nghiệp, khả năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Nông lâm thủy sản cần tìm cách hỗ trợ để họ có thể thay đổi vị trí của mình.
Một vấn đề nữa của doanh nghiệp Việt Nam đó là trên 50% doanh nghiệp Việt Nam hoạt động đang thua lỗ hoặc hòa vốn. Với tỷ trọng như vậy rất khó để mở rộng sản xuất, tích tụ tư bản, nâng quy mô của mình lên. Chỉ 43% doanh nghiệp kinh doanh có lãi. “Khả năng tạo ra lợi nhuận bền vững của doanh nghiệp Việt Nam cũng là vấn đề cần lưu tâm”, ông Bình nói và đặt vấn đề làm sao để doanh nghiệp có bức tranh tươi sáng hơn về tài chính, quy mô trong giai đoạn tới.
Về khu vực DNNN, ông Bình cho rằng cần tiếp tục cải cách trong thời gian tới. Hiện nay DNNN đang nắm giữ nhiều nguồn lực quan trọng của nền kinh tế. Chiếm khoảng 25,78% tổng vốn sản xuất, kinh doanh và 23,4% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính sài hạn của các doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh.
Tỷ lệ đóng góp của DNNN về doanh thu và lợi nhuận ngày càng giảm mạnh. Tỷ trọng doanh thu thuần của DNNN năm 2015 đạt 18,2%, năm 2018 là 14,5%. Tỷ trọng lợi nhuận trước thuế năm 2015 là 28,4%, năm 2018 là 21,2%. Đến cuối năm.
Theo Báo cáo Chính phủ gửi Quốc hội về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp năm 2020, tổng tài sản của khu vực DNNN tăng, vốn chủ sở hữu, tổng vốn nhà nước đang đầu tư tăng nhưng tổng doanh thu và lãi trước thuế lại giảm.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gia tăng về số lượng và số vốn đầu tư. Năm 2019, theo Tổng cục thống kê năm 2020 có tới 18,762 doanh nghiệp đang hoạt động. Các doanh nghiệp này đang tận dụng rất nhiều các Hiệp định thương mại quốc tế Việt Nam tham gia kí kết. Hiện Việt Nam tham gia kí kết khoảng 17 hiệp định thương mại với nhiều quốc gia khác nhau. Trong đó có nhiều FTA thế hệ mới như EVFTA, CPTPP, UKFTA,... Các hiệp định này là nền tảng tốt cho hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam và đóng góp nhiều trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Những hiệp định này cũng đóng góp cho việc mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm
TÁI CƠ CẤU KINH TẾ: Tạo dư địa để doanh nghiệp chung tay phát triển xanh
17:01, 14/12/2021
TÁI CẤU TRÚC NỀN KINH TẾ: Nâng cao vai trò của lãnh đạo trong chuyển đổi số
16:58, 14/12/2021
TÁI CẤU TRÚC NỀN KINH TẾ: Khơi thông phương thức PPP tạo dư địa cho vốn xã hội tham gia đầu tư
16:55, 14/12/2021
TÁI CẤU TRÚC NỀN KINH TẾ: Gắn trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực với doanh nghiệp
16:09, 14/12/2021
TÁI CẤU TRÚC NỀN KINH TẾ: Doanh nghiệp cần tìm cách gỡ nút thắt của ngành hoạt động
15:53, 14/12/2021