Việc “can thiệp sớm” khi ngân hàng gặp khó sẽ giảm ảnh hưởng tiêu cực đến toàn hệ thống. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, cần xây dựng khung quy trình xử lý và phải có công nghệ giám sát liên tục…
>>Sửa Luật các tổ chức tín dụng: Tư duy mới trong cách tiếp cận công nghệ tài chính
Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, kế thừa quy định về áp dụng can thiệp sớm tại Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành, Dự thảo Luật có sửa đổi, bổ sung để giải quyết những bất cập thời gian qua. Theo đó, Dự thảo Luật xây dựng mới quy trình can thiệp sớm, bổ sung thẩm quyền của NHNN tại giai đoạn can thiệp sớm, quy định một số biện pháp đang áp dụng tại giai đoạn kiểm soát đặc biệt lên giai đoạn can thiệp sớm, cho phép xử lý từ sớm, từ xa khi tình trạng yếu kém của tổ chức tín dụng chưa đến mức nghiêm trọng.
Theo đó, tại giai đoạn can thiệp sớm, tổ chức tín dụng, chủ sở hữu, cổ đông của tổ chức tín dụng phải tăng cường trách nhiệm, nghĩa vụ của mình như: phải tăng vốn điều lệ, vốn được cấp; tăng cường nắm giữ tài sản có tính thanh khoản cao; bán, chuyển nhượng tài sản và thực hiện các giải pháp khác để đáp ứng yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng; cắt giảm chi phí hoạt động, chi phí quản lý; hạn chế hoặc không chia cổ tức, tăng cường quản trị rủi ro; tổ chức lại bộ máy quản trị, điều hành… Bên cạnh đó, tổ chức tín dụng còn có thể bị xem xét hạn chế hoạt động kinh doanh không hiệu quả, đình chỉ, tạm đình chỉ một hoặc một số hoạt động ngân hàng; đình chỉ người quản lý, người điều hành có hành vi vi phạm quy định pháp luật…
>>Sửa Luật Các tổ chức tín dụng: Cân nhắc các trường hợp cần áp dụng "can thiệp sớm"
Xung quanh câu chuyện này, TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cho rằng, các biện pháp can thiệp sớm cần phải kịp thời, đúng liều lượng và hiệu quả. Để làm được như vậy, NHNN cần được trao đủ thẩm quyền cần thiết với quy trình thực hiện cụ thể. Trong đó, NHNN là bên cho vay đặc biệt khi tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng khó khăn. Do đó, bên cạnh việc đưa ra các dấu hiệu nhận biết rủi ro để can thiệp sớm, cần xây dựng khung quy trình xử lý khủng hoảng, tránh tình trạng khi có vấn đề thì các cơ quan chức năng lại phải xin cơ chế xử lý khiến vấn đề trở nên trầm trọng và có thể gây rủi ro cho cả hệ thống.
Cũng theo TS. Cấn Văn Lực, cần đảm bảo nguyên tắc can thiệp càng sớm càng tốt; không tiết lộ, công khai không đúng lúc về tổ chức tín dụng có vấn đề cần can thiệp vì tính nhạy cảm của hoạt động ngân hàng; cho vay đặc biệt nên có thời hạn, điều kiện cụ thể đối với tổ chức tín dụng được “giải cứu/can thiệp” nhằm giảm thiểu rủi ro đạo đức; nên tăng cường các chính sách hỗ trợ (kể cả cho vay đặc biệt) đối với tổ chức tín dụng tham gia “cơ cấu lại/giải cứu” nhằm chia sẻ khó khăn và tăng tính động lực.
Để các biện pháp này được thực hiện thuận lợi, ông Lực cho rằng, nên có quy định bảo hộ pháp lý đối với đội ngũ thanh tra, kiểm tra - giám sát tổ chức tín dụng cũng như các lĩnh vực khác, như thông lệ quốc tế (đối với trường hợp nguyên nhân do khách quan và/hoặc đã hành động “đúng quy định, quy trình, hợp lý; trừ trường hợp cố ý, cố tình…). “Cơ chế này cũng cần được áp dụng cho những cán bộ tham gia tái cơ cấu các tổ chức tín dụng yếu kém”, TS. Cấn Văn Lực nói.
Đồng quan điểm. TS Châu Đình Linh - Đại học Ngân hàng TP.HCM cũng cho rằng, quy định về can thiệp sớm với các tổ chức tín dụng tại Dự thảo Luật phù hợp với xu thế của hoạt động ngân hàng trong thời gian gần đây theo hướng quản trị rủi ro chủ động.
Tuy nhiên, theo ông Linh, để thực hiện hiệu quả việc này, công tác giám sát và quản trị rủi ro hệ thống ngân hàng cần được thực hiện thường xuyên thay vì chờ báo cáo từ các ngân hàng, đồng thời, đảm bảo tính trung thực và chính xác từ các thông tin thu thập giám sát. “Đặc biệt, các ngân hàng thương mại cần nâng cao chuẩn mực quản trị theo chuẩn mực quốc tế thì mới hỗ trợ tốt công tác giám sát, cảnh báo sớm rủi ro và can thiệp sớm”, ông Linh nhấn mạnh.
Có thể bạn quan tâm