Việc kéo dài thời gian thẩm định nội dung sáng chế không chỉ khiến doanh nghiệp đánh mất cơ hội kinh doanh mà còn làm gia tăng rủi ro bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Đây là chia sẻ của Luật sư Phùng Quang Cường, Luật sư thành viên VPLS NHQuang & Cộng sự, Hoà giải viên Trung tâm Hòa giải thương mại Quốc tế Việt Nam (VICMC) với Diễn đàn Doanh nghiệp.
Thưa ông, với kinh nghiệm thực tiễn của mình, việc thời gian thẩm định sáng chế kéo dài 3–5 năm như hiện nay đang gây ra những hệ lụy cụ thể nào đối với môi trường đổi mới sáng tạo?
Thực tế cho thấy, để được công nhận và cấp văn bằng bảo hộ, sáng chế phải qua một quá trình thẩm định mất rất nhiều thời gian và phức tạp. Việc chậm thẩm định sẽ là nguyên nhân gây thiệt hại kinh tế đối với chủ sở hữu sáng chế qua việc khai thác các sáng chế mà họ đã đầu tư, sáng tạo, bởi họ buộc phải khai thác sáng chế ngay trong giai đoạn chờ đợi để tận dụng cơ hội thị trường, cải tiến quy trình sản xuất hoặc đưa sản phẩm mới ra thị trường…
Tuy nhiên, trong suốt thời gian này, chủ sở hữu sáng chế không có đủ cơ sở pháp lý để ngăn chặn triệt để hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Họ chỉ có thể phát đi cảnh báo, chứ chưa thể yêu cầu bên vi phạm chấm dứt hay bồi thường thiệt hại. Chỉ khi văn bằng bảo hộ được cấp, chủ sở hữu mới có quyền thực thi đầy đủ.
Như vậy, nếu được cấp văn bằng bảo hộ sáng chế sớm, chủ sở hữu sáng chế có thể thúc đẩy khai thác thương mại đối với sáng chế thông qua các hình thức định giá tài sản, góp vốn hoặc chuyển giao quyền khai thác đối với sáng chế là tài sản trí tuệ của mình. Điều này rất phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp, trong đó sở hữu trí tuệ là một loại tài sản hợp pháp của doanh nghiệp có thể dùng để góp vốn và định giá cổ phần, trái phiếu trong doanh nghiệp.
Đáng chú ý, Nghị quyết số 57-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2030, số lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16 - 18%/năm, tỉ lệ khai thác thương mại đạt 8 - 10%. Do vậy, một trong những nhiệm vụ và giải pháp theo Nghị quyết số 57-NQ/TW là khẩn trương sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ các quy định pháp luật về khoa học, công nghệ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thuế… để tháo gỡ các điểm nghẽn, rào cản; đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính; giao quyền tự chủ trong sử dụng kinh phí nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ. Rõ ràng, nếu tiến độ thẩm định không được cải thiện, các mục tiêu này sẽ gặp khó khăn.
Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 93 Luật Sở hữu trí tuệ, bằng độc quyền sáng chế có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết 20 năm kể từ ngày nộp đơn. Quy định này đồng nghĩa với việc không cho văn bằng độc quyền sáng chế được gia hạn hiệu lực bảo hộ như đối với nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp.
Vì vậy, khi sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ thời gian tới, cơ quan lập pháp nên xem xét cho gia hạn thêm thời gian hiệu lực của văn bằng bảo hộ sáng chế để hỗ trợ và bù đắp cho chủ sở hữu sáng chế quyền khai thác thương mại, khi thời hạn thẩm định đơn cấp văn bằng bảo hộ sáng chế bị kéo dài.

Ông đánh giá như thế nào về đề xuất quy định thời hạn tối đa cho từng giai đoạn tiếp nhận, thẩm định hình thức, công bố đơn, thẩm định nội dung?
Quy trình xử lý đơn đăng ký sáng chế gồm các bước cơ bản như thẩm định hình thức; công bố đơn; thẩm định nội dung; chờ chủ đơn nộp phí để quyết định cấp văn bằng bảo hộ. Việc “đặt trần thời gian” là khả thi, tuy nhiên cơ quan lập pháp cũng cần phải lưu ý các vấn đề có ảnh hưởng tới qúa trình xử lý đơn đăng ký sáng chế.
Thứ nhất là về thời hạn hưởng quyền ưu tiên. Việt Nam là thành viên của Công ước Paris và Hiệp ước PCT (Hiệp ước Hợp tác Sáng chế), vì vậy chúng ta phải đảm bảo quyền ưu tiên trong 12 tháng cho người nộp đơn ở các quốc gia thành viên. Khoảng thời gian này nằm trong tổng thời gian xử lý đơn sáng chế, dẫn tới việc quá trình thẩm định kéo dài từ 36 tháng đến 4–5 năm. Do đó, để rút ngắn thời gian, Luật Sở hữu trí tuệ cần được sửa đổi theo hướng thu hẹp thời gian công bố đơn và thời gian thẩm định nội dung, tạo điều kiện để chủ sở hữu sớm nhận được văn bằng bảo hộ.
Thứ hai là về xử lý yêu cầu phản đối của bên thứ ba. Trong thời hạn 9 tháng kể từ ngày công bố đơn, bất kỳ bên thứ ba nào cũng có quyền phản đối việc cấp văn bằng bảo hộ sáng chế. Thực tế cho thấy việc giải quyết phản đối thường kéo dài và làm chậm đáng kể quá trình thẩm định nội dung. Khi sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ, cần điều chỉnh lại mốc thời gian người thứ ba được quyền phản đối như quy định về thủ tục phản đối sẽ bắt đầu từ ngày đăng công báo cấp văn bằng bảo hộ cho sáng chế. Điều này sẽ thuận lợi hơn cho thẩm định viên rút ngắn thời thời gian thẩm định sáng chế.
Ngoài ra, để việc xử lý phản đối của bên thứ ba được nhanh chóng và chính xác, cơ quan quản lý cần thành lập các bộ phận chuyên trách nhằm tiếp nhận, phân tích và đưa ra quyết định độc lập. Điều này sẽ giúp tối ưu hóa quy trình, giảm tải cho bộ phận thẩm định sáng chế, qua đó rút ngắn đáng kể thời gian xử lý đơn.
Vậy ông có đề xuất gì để cơ chế thẩm định rút gọn đối với sáng chế được triển khai hiệu quả trong thực tiễn?
Như trên đã đề cập, việc rút ngắn thời gian đăng ký sáng chế là rất quan trọng đối với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghệ cao, sáng chế phục vụ sản xuất sản phẩm trong nước. Cục sở hữu trí tuệ cần đẩy mạnh việc đánh giá khả năng xử lý đơn đăng ký sở hữu trí tuệ nói chung và đơn đăng ký sáng chế nói riêng đối với năng lực nội tại. Nếu lượng đơn đăng ký vượt quá năng lực nội tại, Cục Sở hữu trí tuệ cần đào tạo nhân lực hoặc ký hợp đồng với chuyên gia bên ngoài để thực hiện công tác thẩm định đơn một cách nhanh chóng và rút ngắn thời gian.
Tôi được biết, từ ngày 10/08/2025, Cục Sở hữu trí tuệ ưu tiên tiếp nhận và xử lý đơn nộp trực tuyến trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Hi vọng, tới đây Cục Sở hữu trí tuệ thúc đẩy việc chuyển đổi số và nâng cao hiệu quả sử dụng dịch vụ công trực tuyến để tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp khi thực hiện đăng ký sáng chế và các đối tượng sở hữu công nghiệp khác.
Trân trọng cảm ơn ông!