Bà Trương Thị Chí Bình, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI) trăn trở: các công ty sản xuất của Việt Nam hiện đang ở “đáy” của chuỗi giá trị.
Mối quan hệ hợp tác trong nền sản xuất hiện đại được hình tượng hóa bằng chuỗi cung ứng, trong đó mỗi quốc gia, mỗi công ty đóng góp một vai trò nhất định tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh cuối cùng.
Ví dụ, điện thoại iPhone có tới 187 nhà cung ứng linh kiện, dịch vụ đi kèm; mỗi chiếc xe Mercedes có tới 3.000 linh kiện rời. Với Việt Nam, sau vài thập kỷ “chung sống” với doanh nghiệp FDI, vị trí vai trò trong chuỗi cung ứng có tiến bộ, nhưng chưa đồng đều. Trong tương quan chuỗi cung ứng ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu của Intel - hiện chúng ta chỉ có thể tham gia khâu kiểm định và đóng gói chip, giá trị mang lại không cao.
Nhưng với Samsung, trong mảng thiết bị di động thông minh, nếu như trước đây doanh nghiệp Việt chủ yếu đóng góp phần lớn lao động phổ thông, sản xuất bao bì, nhãn mác, cung cấp suất ăn công nghiệp, đến nay SMP Holdings đã sản xuất và lắp ráp cụm linh kiện điện tử cho các dòng điện thoại và máy tính bảng cao cấp.
Một ví dụ điển hình khác là ngành ô tô. Hầu hết các linh kiện do doanh nghiệp Việt Nam cung cấp cho ngành này đều là linh kiện rời, gây bất lợi khi muốn xuất khẩu và giữ chân khách hàng. Trong khi đó, các nhà lắp ráp lớn lại chủ yếu gia công và mua linh kiện ở trong nhà máy, rất ít khi thu mua từ bên ngoài.
Sự đóng góp càng lớn, đảm nhiện công việc càng phức tạp, giàu chất xám… giá trị mang lại càng cao. Đây là bài toán đặt ra với doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Không chỉ vươn lên cao hơn trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị mà còn tiến tới làm chủ công nghệ quan trọng.
Theo khảo sát của Bộ Công thương và Tổng cục Thống kê, các doanh nghiệp FDI chiếm tới 80% trong ngành điện và điện tử, trong khi doanh nghiệp tư nhân chỉ chiếm 20%. Điều này hoàn toàn trái ngược với ngành cơ khí, nơi doanh nghiệp tư nhân chiếm 80%.
Theo các chuyên gia, để thoát khỏi vị trí hiện tại, doanh nghiệp trong nước nên tập trung vào lợi thế riêng có, gia công sâu. Thay vì chỉ dừng lại ở OEM (sản xuất theo thiết kế có sẵn), doanh nghiệp cần hướng đến ODM (thiết kế và sản xuất) và OBM (sản xuất thương hiệu riêng).
Thứ nhất, doanh nghiệp Việt có năng lực sản xuất các sản phẩm bộ phận đơn lẻ, đặc biệt trong lĩnh vực máy móc tự động hóa.
Thứ hai, chuyển từ OEM lên ODM và OBM cần đầu tư ban đầu cho nghiên cứu và phát triển (R&D), vì sản phẩm được bán ra kèm với hàm lượng chất xám bản quyền bao giờ cũng có giá cao hơn sản phẩm làm theo đơn đặt hàng sẵn có. Thứ ba, hợp tác quốc tế là con đường rút ngắn đáng kể tiến trình nâng cao năng lực sản xuất.
Nói như ông Đặng Đình Chính - Chủ tịch HĐQT Công ty CP SMP Holdings cho rằng: Việt Nam đang sở hữu một tài sản vô giá là đội ngũ những nhà quản lý hiện đang làm việc cho các tập đoàn lớn nhất thế giới. Đây là điều kiện tiên quyết để bắt đầu xây dựng những nhà máy sản xuất hiện đại, quy mô tầm cỡ thế giới.