Không chỉ lo hàng xuất khẩu vào Mỹ có thể bị chững lại do hàng tồn kho lớn, doanh nghiệp cũng mong đợi các chi tiết cụ thể khi triển khai áp thuế quan.
6 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu của Việt Nam ghi nhận tăng trưởng mạnh mẽ, trong đó có xuất khẩu vào thị trường Mỹ - "mỏ vàng" xuất khẩu của Việt Nam.
Nhiều chuyên gia cho rằng tăng trưởng xuất khẩu đến từ hiện tượng "frontloading" - tăng lượng xuất khẩu trước khi chính sách thuế quan có hiệu lực. Điều này đồng nghĩa khi chính sách thuế quan có hiệu lực với nhiều quốc gia, với Việt Nam là từ 7/8, thì khả năng hấp thụ thêm hàng mới của thị trường "mỏ vàng" sẽ giảm xuống do đã có sẵn hàng tồn kho đón trước.
Tuy vậy, theo ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương, dù thuế nhập khẩu vào Mỹ tăng lên 20% hay 40%, hàng Việt vẫn phải tìm đường vào, do đó, làm thế nào để hàng xuất đi có lợi nhất. Chia sẻ cùng các doanh nghiệp và hiệp hội ngành nghề trong tọa đàm: "Thực trạng và thách thức trong xuất khẩu hàng sang Mỹ" vừa diễn ra tại TP HCM, ông Phú cho rằng, lượng tồn kho lớn là kịch bản từng xảy ra sau Covid-19. Số liệu Cục Thống kê cho thấy 7 tháng qua, xuất siêu sang Mỹ đạt gần 75 tỷ USD, tăng 28,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, ông Phú dự báo từ nửa cuối 2025, thậm chí sang nửa đầu 2026, nhiều ngành khó duy trì tốc độ tăng trưởng 28% như thời gian qua.
Ông Trần Như Tùng, Chủ tịch HĐQT Dệt may Đầu tư Thương mại Thành Công (TCM), kiêm Phó Chủ tịch VITAS, cho biết thực tế doanh nghiệp đã "chạy đơn" trước khi Mỹ áp thuế đối ứng khiến kim ngạch 6 tháng đầu năm sang Mỹ tăng hơn 17%. Nhưng chính đợt đẩy hàng này có thể khiến quý III hụt đơn, do tồn kho lớn và khách chờ chính sách rõ ràng.
Ông Tùng kỳ vọng nếu thuế ổn định ở 20%, đơn hàng sẽ quay lại từ quý IV, song ngành vẫn đối mặt bốn thách thức: Tiêu chuẩn "xanh" làm tăng chi phí, cạnh tranh gay gắt, quy tắc xuất xứ phụ thuộc nguyên liệu Trung Quốc và áp lực đầu tư số hóa với chi phí ERP ít nhất cũng phải tới 2 triệu USD.
Doanh nghiệp buộc phải đầu tư dây chuyền, công nghệ, đáp ứng tiêu chuẩn môi trường nhưng giá bán không tăng, làm cho biên lợi nhuận giảm đáng kể. Nếu được hỗ trợ vốn lãi suất thấp, doanh nghiệp sẽ mạnh dạn đầu tư hơn, ông Tùng cho biết.
Ngoài ra, ông cũng cho biết đến hiện tại, liên quan cụ thể đến thực thi thuế và quy tắc nguồn gốc xuất xứ, doanh nghiệp vẫn chưa nắm bắt rõ ràng cơ chế thuế sẽ áp dụng ra sao. Chẳng hạn như nếu nhập sợi từ Trung Quốc về làm vải và sản xuất hàng thì mức thuế như thế nào, khác ra sao với nhập vải từ Trung Quốc về sản xuất...
Liên quan đến vấn đề mà doanh nghiệp nêu, ông Vũ Bá Phú cho biết hiện Việt Nam vẫn đang phối hợp với các nhà chức trách Mỹ để trao đổi, thống nhất các chi tiết kỹ thuật cụ thể hơn khi thực thi thuế quan.
Ông Điền Quang Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Chế biến gỗ Bình Dương (BIFA), khẳng định bối cảnh hiện nay đang cho thấy một vị thế lớn của Việt Nam trên trường quốc tế, và mức thuế quan 20% của Việt Nam, với lợi thế cạnh tranh, vẫn đảm bảo cơ hội cho doanh nghiệp Việt. Tuy nhiên ngành gỗ cũng ở thế "vừa thuận vừa khó". Thuế 20% vẫn là lợi thế so với Trung Quốc (50-55%) hay Ấn Độ (50%), nhưng mức 40% với hàng trung chuyển tiềm ẩn rủi ro lớn do nguyên liệu nhập từ Trung Quốc còn nhiều.
Do đó, ông đề nghị có hướng dẫn xuất xứ rõ ràng để tránh vướng mắc và khuyến nghị định giá hợp lý từ đầu, thay vì bị ép giảm sâu khi thương lượng với khách hàng Hoa Kỳ.
Ở góc nhìn của doanh nghiệp nông sản, đại diện Công ty Nafoods - ông Nguyễn Mạnh Hùng - Giám đốc, khẳng định Mỹ là thị trường rất tiềm năng. Hiện Mỹ chiếm 20-25% doanh số xuất khẩu của Công ty. 6 tháng đầu năm, mặc dù kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng song biên lợi nhuận Nafoods đang sụt giảm. Theo ông Hùng, để thích ứng, doanh nghiệp đang đẩy nhanh chuyển đổi số, tái cơ cấu chuỗi cung ứng và hướng đến xây dựng các trung tâm chế biến – phân phối (hub) tại thị trường Mỹ, giúp rút ngắn quy trình và tối ưu chi phí. Để thực hiện điều này, doanh nghiệp cần sự hỗ trợ, đồng hành của cơ quan quản lý trong việc tiếp cận thị trường, cũng như những quy định về xuất xứ, truy xuất nguồn gốc.
Theo ông Martin Doan - đại diện Liên minh đầu tư AGCG x High West, để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam chuyển đổi xanh và số, liên minh này hiện đang dành 100 triệu USD cho doanh nghiệp vay phục vụ xuất khẩu. Điều kiện đi kèm là doanh nghiệp phải chứng minh năng lực minh bạch hóa quy trình, ứng dụng công nghệ và tuân thủ yêu cầu truy xuất nguồn gốc. Đây cũng chính là hướng đi bắt buộc nếu doanh nghiệp muốn giữ vững vị thế tại các thị trường cao cấp như Mỹ, nơi không chỉ đòi hỏi về chất lượng, mà còn về độ tin cậy trong toàn bộ chuỗi cung ứng.
Ông Vũ Bá Phú nhận định, trong bối cảnh ngày nay, nhìn chung chiến lược dài hạn phải là phát triển công nghiệp hỗ trợ để giảm phụ thuộc vào linh kiện và nguyên liệu nhập khẩu, gia tăng tỷ lệ nội địa hóa và nâng khả năng đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế về môi trường, lao động, xuất xứ. Riêng nông sản cần chuyển mạnh sang chế biến sâu, siết chặt chứng từ và minh bạch hồ sơ xuất khẩu.