Tạp chí DĐDN phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức Diễn đàn kinh doanh: Đa dạng hoá chuỗi cung ứng, phát triển thị trường, nâng cao khả năng thích ứng cho doanh nghiệp” chiều 26/06.
Với sự phục hồi của thị trường thế giới, các đơn hàng xuất khẩu gia tăng nên hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá trong 5 tháng đầu năm 2024 của Việt Nam đã có những khởi sắc và đạt được những kết quả tích cực.
Cùng với đó, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam đã và đang tái cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo chiều hướng tích cực, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, phù hợp với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và xu hướng chung của thế giới. Hàng hóa Việt Nam đã thâm nhập được vào nhiều thị trường đòi hỏi yêu cầu cao về chất lượng hàng hóa, an toàn thực phẩm. Việt Nam đã dần phát triển nhằm tự chủ một số nền công nghiệp nền tảng để giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nước ngoài.
Nhằm góp phần hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp chủ động thích ứng với tình hình mới, ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh và phục hồi nhanh, đổi mới sáng tạo, phát triển sản xuất kinh doanh bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh, được sự chỉ đạo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức chương trình:
DIỄN ĐÀN KINH DOANH:
ĐA DẠNG HÓA CHUỖI CUNG ỨNG, PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG,
NÂNG CAO KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CHO DOANH NGHIỆP
Thời gian: 13h30 – 17h00, Thứ Tư, ngày 26/6/2024
Địa điểm: Trung tâm Hội nghị Quốc tế, số 37 Hùng Vương, Ba Đình, Hà Nội
Tham dự Diễn đàn có: Ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch Liên đoàn thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI); TS Nguyễn Tú Anh - Vụ trưởng, Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương; Ông Nguyễn Văn Hội - Viện trưởng Viện nghiên cứu Chiến lược và Chính sách công thương (Bộ Công thương); Ông Nguyễn Quốc Việt - Phó Viện trưởng Phụ trách Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR); Ông Lê Duy Bình – Giám đốc Economica Việt Nam; Bà Bùi Thị Việt Lâm - Đại diện quốc gia tại Việt Nam của Hội đồng kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN (USABC); TS. Nguyễn Bích Lâm – Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê.
Về phía các hiệp hội doanh nghiệp có: Ông Trịnh Quang Khanh - Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp xăng dầu Việt Nam; Bà Đỗ Thị Thúy Hương - Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam (VASI); Ông Ngô Sĩ Hoài - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam.
Đặc biệt, Diễn đàn còn có sự tham dự của đại diện các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp trong nước và quốc tế, hiệp hội ngành nghề, hiệp hội doanh nghiệp địa phương, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu.
Về phía ban tổ chức có: Nhà báo Nguyễn Linh Anh – Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp
Ban tổ chức xin trân trọng cảm ơn Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam (PVN) đã đồng hành cùng chương trình.
Và đặc biệt cảm ơn các nhà báo/phóng viên các cơ quan thông tấn báo chí quan tâm, tham dự và đưa tin về Diễn đàn.
ĐA DẠNG CHUỖI CUNG ỨNG – PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
Cơ hội tốt cho đa dạng hoá chuỗi cung ứng
Thông tin tại Diễn đàn, Phó Chủ tịch VCCI Hoàng Quang Phòng cho biết, nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đang ở giai đoạn giao thoa đặc biệt của nhiều xu hướng phát triển. Trong đó, nổi bật là xu hướng chuyển dịch của chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu. Nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn đã, đang có các hành động cụ thể để thay đổi cơ cấu chuỗi cung ứng, đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với tình hình mới thông qua việc ứng dụng ứng dụng các thành tựu vượt bậc của công nghệ số.
Những thay đổi này góp phần phát triển bền vững các chuỗi cung ứng, nâng cao khả năng thích ứng trước những biến động lớn của kinh tế thế giới và khu vực.
Theo Phó Chủ tịch VCCI Hoàng Quang Phòng, trong sự chuyển dịch diễn ra mạnh mẽ đó, Việt Nam được nhiều quốc gia, tập đoàn, doanh nghiệp lớn trên toàn cầu lựa chọn là một trong những điểm đến đầu tư chiến lược và nhiều tiềm năng. Đây chính là thời điểm lịch sử mang đến cơ hội lớn cho nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tiếp nhận dòng vốn đầu tư, công nghệ để trở thành mắt xích trong những chuỗi cung ứng đang bị thiếu hụt trên toàn cầu. Thời điểm này, nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam đạt độ chín cả về vị thế, quy mô, năng lực để có thể nắm bắt cơ hội hiếm có, tạo cú bật mới cho tăng trưởng kinh tế.
“Trong kết quả tích cực của nền kinh tế nước ta 6 tháng đầu năm 2024, ghi nhận sự phục hồi mạnh mẽ của hoạt động xuất khẩu với kim ngạch ước đạt gần 189 tỷ USD, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2023. Đáng chú ý, ở một số mặt hàng trọng điểm ghi nhận kim ngạch xuất khẩu khởi sắc không chỉ xuất phát từ nhu cầu của thị trường mà có sự dịch chuyển nhất định đơn hàng từ các quốc gia khác sang Việt Nam.
Tuy vậy, theo báo cáo của VCCI, trong khoảng 800.000 doanh nghiệp tư nhân trong nước đang hoạt động thì doanh nghiệp lớn chiếm chưa đến 2%, còn lại là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Vấn đề chính với các doanh nghiệp nhỏ và vừa là thiếu kỹ năng quản lý, ít đổi mới công nghệ, khả năng tiếp cận tài chính còn rất nhiều hạn chế. Trong khi đó, việc kết nối kinh doanh giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước còn hết sức mờ nhạt. Hiệu ứng lan tỏa về công nghệ và năng suất lao động của các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước còn rất hạn chế. Hiện đã có những doanh nghiệp ngành ô tô, xe máy và điện tử trong nước đã hội nhập thành công, tuy nhiên con số còn rất khiêm tốn”, Phó Chủ tịch Hoàng Quang Phòng chia sẻ.
Đồng thời cho rằng, đa dạng chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị không chỉ yêu cầu khách quan mà còn là định hướng quan trọng của Đảng, Chính phủ. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh đến việc tiếp tục phát huy vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong hình thành và mở rộng chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị.
Tại Nghị quyết số 41- NQ/TW về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam, Bộ Chính trị đã đưa ra mục tiêu đến năm 2030, một số doanh nghiệp có vị thế, vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu; làm chủ một số chuỗi giá trị công nghiệp, nông nghiệp, có năng lực cạnh tranh quốc tế trong các ngành công nghiệp nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn.
Cũng theo Phó Chủ tịch Hoàng Quang Phòng, trong thời gian qua, Chính phủ đã thực hiện nhiều cơ chế chính sách thúc đẩy phát triển các chuỗi cung ứng mà Việt Nam có thế mạnh; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo… Đặc biệt, những nỗ lực để Việt Nam đã ký kết 19 hiệp định thương mại tự do với các đối tác quan trọng hàng đầu trên thế giới; trong đó có 16 hiệp định thương mại tự do có hiệu lực thực thi tạo cơ hội lớn để phát triển chuỗi cung ứng.
Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam đã và đang tái cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo chiều hướng tích cực, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, đưa hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào nhiều thị trường đòi hỏi yêu cầu cao về chất lượng và các tiêu chuẩn phát triển bền vững. Việt Nam đã dần phát triển nhằm tự chủ một số nền công nghiệp nền tảng để giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nước ngoài.
Kinh nghiệm từ Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore cho thấy, nhiều doanh nghiệp trong nước cung ứng sản phẩm cho các tập đoàn đa quốc gia là một yếu tố quan trọng tạo điều kiện cho các quốc gia, vùng lãnh thổ này vươn lên trong chuỗi giá trị.
“Với tham vọng vươn lên trong chuỗi giá trị, Việt Nam có cơ hội đặc thù để khai thác vị trí của mình trong các chuỗi giá trị toàn cầu. Mục tiêu của Chính phủ là phát triển các mạng lưới nhà cung cấp cấp một (trực tiếp) và nhà cung cấp cấp hai/cấp ba (cung cấp gián tiếp cho nhà sản xuất) trong nước, kết nối họ với các khâu lắp ráp cuối cùng với kỳ vọng hướng các doanh nghiệp đó chuyển sang sản xuất sản phẩm phức tạp hơn và đa dạng hóa “giỏ” hàng hóa xuất khẩu.
Vì vậy, trong thời gian tới, chính sách hỗ trợ phải xuất phát từ nhu cầu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải là những người đặt ra nhu cầu trước, sau đó Chính phủ thiết kế chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp lớn mạnh, tăng sức cạnh tranh, nâng cao năng lực doanh nghiệp trong nước ở những ngành quan trọng có tiềm năng liên kết lớn”, Phó Chủ tịch Hoàng Quang Phòng bày tỏ.
Đồng thời kỳ vọng, thông qua các nội dung thảo luận cởi mở tại Diễn đàn, sẽ gợi mở các giải pháp, kiến nghị đề xuất với cơ quan có thẩm quyền nhằm tháo gỡ những khó khăn “nút thắt” liên quan, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động tham gia, phát triển chuỗi cung ứng, phát triển thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Việt Nam đang trở thành hub kết nối trong môi trường nền kinh tế đang phân cực toàn cầu, mở ra cơ hội lớn cho nền kinh tế và doanh nghiệp. Đây là một trong những nhận định được TS. Nguyễn Tú Anh - Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế (Ban Kinh tế TW) chia sẻ tại Diễn đàn.
Thông tin về tình hình thế giới những năm gần đây, TS. Nguyễn Tú Anh cho biết, do ảnh hưởng từ những biến động địa chính trị toàn cầu, nền kinh tế thế giới đang có xu hướng phân cực và dòng vốn đầu tư toàn cầu đang dịch chuyển mạnh mẽ. Tại Việt Nam, xu hướng này bắt đầu diễn ra mạnh mẽ từ năm 2022, trong đó, các hub của chuỗi cung ứng thế giới và Trung Quốc sang Việt Nam.
Cụ thể, vốn đầu tư mới từ Trung Quốc vào Việt Nam tăng từ khoảng 2,3 tỷ USD năm 2019 lên 3,5 tỷ USD vào năm 2023. Về tỷ trọng, vốn đầu tư từ Trung Quốc chiếm 30,9% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 2019 đã tăng lên 34% vào năm 2023.
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ đang làm thay đổi hoạt động thương mại và đầu tư trên thế giới. Trước đây, theo mô hình truyền thống khoảng cách địa lý quyết định thương mại đầu tư thì hiện nay, thươnng mại đầu tư không bị ảnh hưởng bởi yếu tố khoảng cách địa lý.
Đặc biệt, sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện tạo cú hích lớn, góp phần làm thay đổi nhận thức của các nhà đầu tư, đồng thời đưa Việt Nam đã trở thành hub kết nối trong môi trường nền kinh tế đang phân cực toàn cầu như hiện nay.
“Việt Nam đang có vị thế đặc biệt và cơ hội lớn kết nối với các xu thế phân cực cũng như kết nối được với các cực. Cùng với dòng vốn từ Trung Quốc đang tăng, dòng vốn từ các nước khác như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc vẫn tiếp tục tăng nhanh trong thời gian qua. Nhìn từ góc độ nền kinh tế Việt Nam, không có sự phân cực nào” - TS. Nguyễn Tú Anh chia sẻ.
Nhìn nhận đây là cơ hội để Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu đang rộng mở, Chính phủ đang quyết tâm tập trung cao độ trong việc giải quyết các “nút cổ chai” của nền kinh tế là kết cấu hạ tầng. Hiện nay, Chính phủ và các địa phương đang dồn vốn đầu tư công để nâng cấp kết cấu hạ tầng, cảng biển, đường cao tốc kết nối trực tiếp. Khi các nền tảng đặt ra, tiềm năng phát triển của kinh tế Việt Nam trong trung và dài hạn được mở ra
Những cơ hội lớn đi cùng với một số thách thức, TS. Nguyễn Tú Anh đề cập đến thách thức lớn nhất là nguồn nhân lực. Việt Nam không thừa lao động mà đang thiếu lao động có kỹ năng tay nghề và cả lao động phổ thông.
Thứ hai, nền kinh tế tăng trưởng nhanh, thu hút dòng vốn lớn, nhu cầu năng lượng lớn cần cân nhắc.
Thứ ba, kết nối doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI, nhìn từ góc độ doanh nghiệp bắt nguồn từ nhu cầu tự thân của doanh nghiệp mong muốn kết nối với doanh nghiệp địa phương với yêu cầu về tính ổn định và chất lượng cao. Đó là những doanh nghiệp lớn có nhu cầu nhập số lượng lớn nguyên vật liệu từ bên ngoài thì doanh nghiệp địa phương, dù một sản phẩm có thể hỗ trợ giảm chi phí, chẳng hạn chỉ có 1 cent hay 10 cent cũng là con số lớn. Lúc đó, cung ứng trong nội địa có cơ hội phát triển.
Tuy nhiên, doanh nghiệp trong nước muốn tham gia và kết nối vào chuỗi cung ứng cần đầu tư vào con người, công nghệ nhưng cần quan tâm đến những rủi ro trong đầu tư khó kiểm soát.
Cuối cùng, gắn liền với xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu là xu hướng chuyển đổi xanh. Khi đã tham gia vào thị trường chung của thế giới, Việt Nam sẽ không đứng ngoài "cuộc chơi" với yêu cầu cần giảm thiểu "dấu chân" carbon trong sản xuất. Chúng ta cần nhận thức đầy đủ yêu cầu trong sản xuất đảm bảo giảm "dấu chân" carbon không vượt quá chuẩn mực của các thị trường phát triển. Việt Nam từng bước xây dựng thị trường tín chỉ carbon và thực hiện đang kiểm kê khí nhà kính của gần 2.000 doanh nghiệp.
“Cơ hội lớn đang mở ra cho nền kinh tế và doanh nghiệp từ xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu. Chính phủ đang nỗ lực hỗ trợ doanh nghiệp, ngược lại doanh nghiệp cần nhìn trước những rủi ro, thách thức để có giải pháp khắc phục, nắm bắt cơ hội” - TS Nguyễn Tú Anh nhấn mạnh.
Chia sẻ tại Diễn đàn, ông Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện nghiên cứu Chiến lược và Chính sách công thương, Bộ Công Thương cho biết, 5 tháng đầu năm 2024, nền kinh tế ghi nhận bước tăng trưởng ấn tượng.
Theo đó, tình hình sản xuất công nghiệp phát triển mạnh, trong đó, chế biến chế tạo tăng 10,6%, sản xuất công nghiệp và phân phối điện tăng 11,4%, cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,4%. Trong khi đó, Khai khoáng giảm 9,4%.
“Chúng ta có bước phát triển mạnh mẽ 5 tháng đầu năm, tăng lĩnh vực cần tăng, giảm lĩnh vực cần giảm”, Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược và Chính sách Công Thương nhận định.
Đồng thời cho biết, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đều tăng, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 16,6%, đây là mức tăng cao, thậm chí tăng mạnh mẽ so với các nước trong khu vực.
Trong bối cảnh yêu cầu cao hơn của các thị trường, chia sẻ về những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp Việt gia nhập sâu và giá trị hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu, ông Hội cho biết có nhiều chính sách như: Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg - 12/2019/QĐ-TTg – Xúc tiến thương mại, Quyết định số 30/2019/QĐ-TTg - 1320/QĐ-TTg_2019 – Thương hiệu quốc gia, Quyết định số 68/QĐ-TTg_2017 - 10/2017/QĐ-TTg - 71/QĐ-TTg_2024 – Công nghiệp hỗ trợ, Quyết định số 1881/QĐ-TTg_2020 – Khuyến công quốc gia, Quyết định số 493/QĐ-TTg_2022 – Xuất nhập khẩu hàng hóa…
Nhờ sự thúc đẩy từ các chính sách hỗ trợ này, theo ông Hội, nhiều chương trình triển lãm, thúc đẩy, kết nối được thực hiện. Thông tin thương mại nghiên cứu thị trường, chuyển giao công nghệ được thực hiện. Thậm chí, việc hỗ trợ cung ứng theo chuỗi phát huy hiệu quả.
“Nhiều thương hiệu quốc gia đã vươn mình ra thế giới. Chúng ta tham gia sâu vào chuỗi cung ứng nên công nghiệp phụ trợ phát triển mạnh”, ông Hội chia sẻ.
Tuy nhiên, ông Hội cũng thẳng thắn, còn một số khó khăn trong quá trình thực thi, như nhận thức, tư duy, cách nghĩ, tầm nhìn của các nhà làm chính sách. Thiếu minh bạch và bình đẳng, thiếu tính ổn định, còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu chặt chẽ.
Bên cạnh đó, chính sách thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng thực thi không hiệu quả. Chưa có những cơ chế, chính sách riêng cho khuyến khích phát triển logistics xuất khẩu.
Cũng theo ông Hội, các chính sách về nguồn lực cần thiết để phát triển xuất khẩu còn thiếu hụt. Sản xuất nguyên liệu, thiết kế, phân phối chưa đồng bộ.
Chuỗi sản xuất, xuất khẩu còn gặp vướng mắc theo các quy định của pháp luật hiện hành. Nhận thức và năng lực thực thi chính sách thúc đẩy xuất khẩu từ phía các doanh nghiệp cũng là hạn chế.
Do đó, ông Nguyễn Văn Hội nhấn mạnh, cần định hướng hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp gia nhập sâu và giá trị hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Thứ nhất, tổ chức các Hội chợ triển lãm, xúc tiến thương mại, đầu tư, phát triển thị trường, đa dạng hóa hình thức quảng bá, giới thiệu sản phẩm xuất khẩu.
Thứ hai, xây dựng và phát triển các thương hiệu. Nhận thức cho các doanh nghiệp về lao động, môi trường… trong các FTAs.
Thứ ba, quy tắc xuất xứ, phòng vệ thương mại. Doanh nghiệp cũng cần đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.
Thứ tư, xây dựng hàng rào kỹ thuật như áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật nhập khẩu, kiện chống bán phá giá, đánh thuế môi trường... để bảo vệ sản xuất trong nước.
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Nguyễn Quốc Việt, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) cho biết, trong xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam trở thành một trong những điểm đến sản xuất của nhiều tập đoàn toàn cầu, việc tham gia sâu vào chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất là cần thiết với doanh nghiệp Việt Nam.
Năm 2023, Việt Nam có 7 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD. Tuy nhiên, trên đà Việt Nam tham gia mạnh mẽ trở lại thương mại quốc tế trong năm 2024, ông Việt cho biết, bức tranh thương mại toàn cầu 2024 vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ, thách thức dai dẳng như căng thẳng địa chính trị có thể dẫn đến gián đoạn chuỗi cung ứng, tăng thuế quan và hạn chế thương mại, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh và đầu tư toàn cầu.
Cùng với đó, chi phí logisitc tăng cao do sự gián đoạn các tuyến đường vận chuyển ở Biển Đỏ, Biển Đen, Kênh Pana, Kênh đào Suez… làm chi phí đầu vào tăng cao, ảnh hưởng đến khả năng của các mặt hàng Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Chính sách gia tăng bảo hộ, tăng trợ cấp và biện pháp hạn chế thương mại và các chiến lược tăng trưởng hướng vào xuất khẩu nhường chỗ cho các chiến lược tăng trưởng do nhu cầu nội địa thúc đẩy.
Ngoài ra, trong báo cáo thường niên của VEPR mới cập nhật cho thấy, có một số rủi ro cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu như áp lực lạm phát toàn cầu và xu hướng lãi suất cao có thể tác động đến chính sách tiền tệ trong nước và gia tăng chi phí vốn; Bất ổn địa chính trị, xu hướng phân mảnh tiềm ẩn nhiều thách thức cho hoạt động thương mại và đầu tư, giảm cơ hội hợp tác và chia sẻ công nghệ giữa các quốc gia và doanh nghiệp.
Cạnh tranh thu hút FDI ngày càng gay gắt và thị trường Việt Nam chưa đủ sức hấp dẫn để thu hút đầu tư công nghệ cao; Việc thiếu hụt lao động có kỹ năng, đặc biệt trong các lĩnh vực thiết yếu và công nghệ khiến Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế; Biến đổi khí hậu đang tạo ra các rào cản bảo hộ mới liên quan đến xanh hoá, tín chỉ carbon, bảo hộ ẩn náu dưới các chính sách ngành.
Một điểm đáng chú ý được ông Việt chỉ ra rằng, tỷ trọng giá trị gia tăng của Việt Nam trong xuất khẩu không cao. Đến năm 2020, tỷ trọng GTGT nội địa của hàng xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ đạt 50% và nhập khẩu đầu vào 50% còn lại.
Đồng thời, doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa vào được các khu công nghiệp đạt chuẩn do các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư. Do đó, ở các cụm công nghiệp cũ không đáp ứng được tiêu chuẩn về môi trường, các doanh nghiệp cũng gặp phải các rào cản khi xuất khẩu ra nước ngoài, đặc biệt là tại thị trường EU do các chính sách xanh của khu vực này như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (Carbon Border Adjustment, Kế hoạch Hành động kinh tế tuần hoàn…
Thực trạng trên cho thấy dù có cơ hội nhưng việc tham gia sâu vào chuỗi cung ứng nhưng doanh nghiệp còn gặp không ít thách thức. Do đó, ông Việt cho rằng, cần có chính sách hỗ trợ kịp thời để các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Cụ thể ông Việt chỉ ra, cần tăng cường chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong đầu tư đổi mới công nghệ, nhất là công nghệ xanh, tiết kiệm năng lượng và chuyển dịch năng lượng tái tạo. Bên cạnh đó, tích hợp xây dựng thương hiệu doanh nghiệp và sản phẩm với các xu thế thương mại và sản xuất toàn cầu hóa.
Ông Việt cho biết thêm, việc khẳng định tên thương hiệu và làm rõ các sản phẩm “Made in Vietnam” là điều cần thiết trong bối cảnh phân cực hiện nay. Đồng thời, cần tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng ESG trong quản trị doanh nghiệp; Xây dựng liên kết giữa doanh nghiệp nội địa với doanh nghiệp FDI để đáp ứng các chuẩn mực và vượt qua rào cản mới trong thương mại Quốc tế.
Cuối cùng, ông Việt cho rằng, cần tăng cường hợp tác khoa học và công nghệ giữa các doanh nghiệp với các đơn vị nghiên cứu, chính sách, các trường đại học…Theo đó, hợp tác liên kết trong chuỗi cung ứng theo hướng nghiên cứu và phát triển, chuyển giao công nghệ tiên tiến góp phần giúp doanh nghiệp phát triển bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh và thích ứng hiệu quả, mở rộng thị trường xuất khẩu và khai thác tốt lợi thế từ các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
TS Nguyễn Quốc Việt cũng đề xuất, VCCI và Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp nên là cầu nối, tạo dựng nền tảng, hệ sinh thái để các bên có thể trao đổi, kết nối hợp tác, từ đó tìm ra cách thức để thương hiệu Việt có thể hiện diện mạnh mẽ hơn trên trường quốc tế.
Để hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, cần đổi mới cách tiếp cận về cải cách thể chế và chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp… Đây là chia sẻ của TS. Lê Duy Bình - Giám đốc điều hành Economica Việt Nam tại Diễn đàn.
TS. Lê Duy Bình cho biết, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, hiện Việt Nam đang có khoảng 5.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đang cung cấp cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu sang các thị trường chính là Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ.
Tuy nhiên trong số khoảng 5.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ này, theo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), có khoảng 100 doanh nghiệp trong nước là nhà cung ứng cấp một cho các tập đoàn đa quốc gia; khoảng 700 doanh nghiệp là nhà cung ứng cấp hai, cấp ba…
Theo TS. Lê Duy Bình, gia nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu phụ thuộc nhiều vào nỗ lực tự thân của các doanh nghiệp. Nhưng những nỗ lực tự thân đó sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn rất nhiều nếu như các điều kiện về thể chế, chính sách, môi trường kinh doanh và quy định pháp luật không tạo ra vướng mắc…
"Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy, vẫn còn một số điểm nghẽn lớn về thể chế và chính sách hỗ trợ để giúp doanh nghiệp Việt tự tin, vững vàng hơn khi gia nhập chuỗi cung ứng toàn cầu" - ông Lê Duy Bình nói.
Chẳng hạn như, ngoài các yêu cầu về trình độ công nghệ, quy trình quản lý sản xuất, kiểm soát chất lượng, áp lực đối với các doanh nghiệp trong nước còn đến từ yêu cầu phải đảm bảo tiến độ và chất lượng giao hàng khắt khe, phải chịu sự giám sát chặt chẽ của người mua, các doanh nghiệp đầu chuỗi hay ở vị trí cao hơi trong chuỗi cung ứng, phải chịu sự đánh giá và kiểm soát thường nhật theo các tiêu chuẩn khắt khe của các công ty đầu chuỗi với những yêu cầu tối ưu hóa quá trình sản xuất tính theo ngày chứ không phải theo tháng. Điều quan trọng nhất, các doanh nghiệp phải có khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình.
Từ đó, đòi hỏi một môi trường thể chế và môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn và thông thoáng để các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư về công nghệ, đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và phát triển để họ có thể tiếp cận vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn lớn đang hoạt động tại hay ngoài Việt Nam.
“Để đáp ứng được các yêu cầu về công nghệ, kỹ thuật, và các yêu cầu vể thời gian giao hàng, rõ ràng các doanh nghiệp cần được sự hỗ trợ bởi các quy định pháp luật thuận lợi về nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị, về kiểm tra chuyên ngành, thủ tục hải quan, xuất nhập khẩu, các thủ tục hành chính có liên quan.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần được hỗ trợ bởi một hệ sinh thái các tổ chức hỗ trợ khác, hoặc trong khu vực công hay khu vực tư, như các các cơ quan quy định về hệ thống chất lượng, kiểm định chất lượng, các phòng thí nghiệm, hệ thống các các viện, trường, trung tâm nghiên cứu và phát triển…”, ông Bình bày tỏ.
Cũng theo ông Bình, một trong những khó khăn hiện nay của doanh nghiệp là yêu cầu xanh hóa và phát triển bền vững, trong đó, những người mua, doanh nghiệp nhập khẩu của nước ngoài, đứng trước xu thế chung phát triển chung, sự thay đổi về quy định pháp luật, cũng như áp lực từ người tiêu dùng trong nước đã tạo ra các tiêu chuẩn ngày một cao hơn về sản xuất xanh, buộc các các doanh nghiệp tại các quốc gia khác khi tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu phải đẩy nhanh quá trình cải tiến quy trình “xanh hóa” một cách mạnh mẽ hơn.
Thực tế, để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, ứng dụng các tiêu chuẩn ESG (môi trường, xã hội và quản trị), CSR (trách nhiệm xã hội), mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh đến nay không còn là lựa chọn nữa mà đã trở thành con đường tất yếu đối với các doanh nghiệp trong nước.
Ví dụ như, khi tham gia chuỗi cung ứng quốc tế, không những phải tuân thủ các quy định của nước sở tại mà còn cần đáp ứng các thông lệ quốc tế - chẳng hạn như cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới của EU hay Quy định Chống phá rừng của EU…
Do vậy, theo ông Lê Duy Bình, các doanh nghiệp Việt muốn trở thành nhà cung cấp trong chuỗi giá trị toàn cầu cần được đào tạo và hỗ trợ, xây dựng năng lực để tuân thủ các quy tắc về ứng xử, quy định và tiêu chuẩn là rất quan trọng. Bên cạnh đó, cần phát triển các công cụ kỹ thuật số để tăng cường khả năng truy xuất nguồn gốc và thu thập dữ liệu trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Theo đó, các quy định về tiêu chuẩn xanh cũng cần được xây dựng nhằm định hướng cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp cũng cần được thực hiện một cách có trọng tâm, trọng điểm để các doanh nghiệp nâng cao năng lực, nâng cao trình độ số hóa, năng lực công nghệ thông tin để đáp ứng được các yêu cầu khắt khe về các tiêu chuẩn ESG của những nhà nhập khẩu từ các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Mỹ, Canada và nhiều nền kinh tế khác.
Đặc biệt, ông Bình cho rằng, để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam gia nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu cần có sự đổi mới trong cách tiếp cận về hỗ trợ doanh nghiệp theo hướng trọng tâm, trọng điểm hơn nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể, ưu tiên về góc độ phát triển doanh nghiệp hiện nay.
Theo ông Bình, đứng trước yêu cầu mới về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, cần hành động cấp bách để xác lập vị thế trong các chuỗi cung ứng toàn cầu, và khi nền kinh tế bắt đầu hồi phục trở lại, cần trả lại không gian cho thị trường và cho các nguyên tắc của cơ chế thị trường. Các biện pháp mang tính chất bao cấp, hỗ trợ, miễn, giảm đã được thực hiện quá dài cũng phải được “thu lại” hoặc thu hẹp dần về quy mô hay cường độ, nhờ đó thị trường sẽ quay trở lại vận hành đúng như quy luật vốn có của nó…
“Thu lại dần những biện pháp hỗ trợ không có nghĩa là Nhà nước không tiếp tục có những biện pháp kiến tạo cho doanh nghiệp phát triển. Thay vì các biện pháp hỗ trợ như miễn, giảm, giãn, hoãn trên diện rộng thì nguồn lực từ ngân sách Nhà nước đáng lẽ để dành cho việc này có thể được sử dụng để đầu tư, hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm cho các doanh nghiệp, các tổ chức, thể chế đóng vai trò quan trọng trong việc định hình tương lai về kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế sáng tạo hay các doanh nghiệp, các tổ chức trong các hệ sinh thái của các ngành công nghiệp mới trong tương lai như chất bán dẫn, chip, phương tiện vận tải điện, năng lượng sạch, kinh tế số, trí tuệ nhân tạo.
Các chính sách hỗ trợ có tính chất trọng tâm, trọng điểm như vậy, đặc biệt là giảm bớt hình thức trợ cấp, hỗ trợ sẽ nâng cao tinh thần tự lực, tự cường của cộng đồng doanh nghiệp, hỗ trợ các doanh nghiệp tiên phong, đổi mới sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám dấn thân vào các lĩnh vực mới mà nền kinh tế thực sự cần…”, ông Bình bày tỏ.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CHO DOANH NGHIỆP
Để phân tích, đưa ra các khuyến nghị nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc phát sinh, giúp các doanh nghiệp hoạch định chính sách, chiến lược trong kinh doanh trong thời gian tới, Phiên Thảo luận của Diễn đàn với chủ đề: GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CHO DOANH NGHIỆP với sự tham gia của đại diện các bộ ban ngành các hiệp hội cùng rất nhiều doanh nghiệp đã làm rõ hơn các vấn đề. Nhà báo Nguyễn Linh Anh – Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp điều phối phiên thảo luận.
Đồng thuận với các ý kiến đã phát biểu trước đó, TS. Nguyễn Bích Lâm - nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho biết, trong một thập kỷ gần đây, kinh tế thế giới đối mặt với nhiều bất định, cạnh tranh giữa các nước lớn làm thay đổi và phá vỡ quy luật thông thường của kinh tế toàn cầu.
Trong sự thay đổi trên, đáng chú ý nổi lên 5 xu hướng đặc trưng định hình lại chuỗi cung ứng toàn cầu. Đó là chuỗi cung ứng phải linh hoạt hơn, bền vững, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số; mạng lưới sản xuất toàn cầu quyết định tương lai của chuỗi cung ứng và sự gia tăg mạnh mẽ của mạng lưới sản xuất khu vực; Trung Quốc là công xưởng sản xuất của toàn cầu; gia tăng dịch vụ toàn cầu hoá là công nghệ thông tin, nghiên cứu phát triển tạo cơ hội tăng trưởng mới và cạnh tranh toàn cầu; phát triển chuỗi cung ứng khu vực có thể làm gia tăng lạm phát, các nước nâng lạm phát mục tiêu.
Các nhà kinh tế đã chỉ ra 3 xu hướng thay đổi chuỗi cung ứng toàn cầu trong thời gian tới. Dịch chuyển chuỗi cung ứng sang các nước cùng khu vực địa lý để tránh phụ thuộc, giảm rủi ro; dịch chuyển chuỗi cung ứng đòi hỏi đầu tư thường gắn với sản xuất công nghệ cao, diễn ra ở các nước phát triển như Mỹ, EU; tái cơ cấu, sắp xếp chuỗi cung ứng gắn với đa dạng hoá nguồn cung và mở rộng thị trường.
Trước sự thay đổi của kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam có nhiều lợi thế để nắm bắt cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Theo TS. Nguyễn Bích Lâm, Việt Nam đang là thị trường đầy tiềm năng với dân số đạt 100 triệu với vị trí địa lý thuận lợi và là điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam đồng thời đang hội nhập sâu rộng vào kinh tế quốc tế với việc tham gia vào 17 Hiệp định thương mại tự do và đóng vai trò kết nối quan trọng trong nền kinh tế phân mảng.
Tại hội nghị COP 26, Việt Nam đã cam kết mạnh mẽ phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã vào Việt Nam với công nghệ mới, hiện đại mà dự án xây dựng nhà máy Lego trung hoà carbon là điển hình.
Bên cạnh những lợi thế trên, TS. Nguyễn Bích Lâm chỉ ra một số thách thức của nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Đó là, nội lực tồn tại và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn thấp; công nghiệp phụ trợ non kém và phụ thuộc vào nguồn nguyên, nhiên vật liệu bên ngoài; công nghệ và phương thức sản xuất lạc hậu.
Chuỗi cung ứng thường gồm 5 nhóm đối tác là nhà cung ứng nguyên nhiên vật liệu đầu vào, các nhà sản xuất hàng hoá, nhà phân phối và logistic, đại lý bán lẻ và khách hàng. Tuy nhiên, thời gian qua, doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ chú trọng vào một trong 5 nhóm đối tác là các nhà sản xuất hàng hoá, ít quan tâm đến các nhóm đối tác khác.
Cùng với đó, doanh nghiệp chưa chủ động trong việc thực hiện đầy đủ cam kết quy định trong các FTA, nhất là quy định mới để tận dụng thế mạnh…
TS. Nguyễn Bích Lâm cũng đề cập đến rào cản từ chính các quy định, thủ tục hành chính, thể chế chính sách; năng suất lao động thấp và khả năng cạnh tranh kém.
Từ thực trạng trên, TS. Nguyễn Bích Lâm đề xuất một số nhóm giải pháp tận dụng triệt để các cơ hội.
Thứ nhất, xây dựng Chiến lược phát triển doanh nghiệp dân tộc hoà nhịp với xu hướng tái định hình, chuyển dịch chuỗi cung ứng; trong đó Chính phủ đóng vai trò bà đỡ.
Thứ hai, cần có điều kiện nhất định để các nhà đầu tư nước ngoài cùng đầu tư, cùng sản xuất với các doanh nghiệp trong nước phát triển để lan toả hiệu quả thu hút FDI; đồng thời có cơ chế sàng lọc chất lượng đầu tư nước ngoài, lựa chọn định hướng đầu tư FDI, hạn chế rủi ro.
Thứ ba, thực hiện cam kết đầy đủ của Việt Nam trong các FTA để thụ hưởng lợi thế bền vững và lâu dài
Thứ tư, phát huy tối đa vai trò và lợi ích của nền kinh tế kết nối; có chiến lược chủ động tham gia dịch vụ toàn cầu.
Phát biểu tại phiên thảo luận, bà Bùi Thị Việt Lâm - đại diện quốc gia tại Việt Nam của Hội đồng kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN (USABC) bày tỏ: Chúng tôi năm nào cũng tổ chức phía đoàn cấp cao đến Việt Nam tìm kiếm cơ hội hợp tác đầu tư. Hai năm nay đều ghi nhận sự tham gia phái đoàn đông kỷ lục và như năm 2023 vừa qua đã có đoàn gồm gần 60 doanh nghiệp lớn.
Theo bà Lâm, khi các doanh nghiệp Hoa Kỳ gặp lãnh đạo Chính phủ đều khẳng định Việt Nam đang nổi lên là điểm đến, là nơi thu hút các nhà đầu tư Hoa Kỳ và có cơ hội phát triển thành hub của khu vực về công nghệ cao. Việt Nam - Hoa Kỳ thiết lập quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững vào tháng 9/2023. Sau FTA này cộng đồng doanh nghiệp rất hào hứng và cũng chờ đợi những chính sách đột phá, thu hút, đặc biệt là các lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp bán dẫn.
USABC cùng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng vừa khai trương sáng kiến “Phát triển mạng lưới đối tác tiến bộ công nghệ và điện tử toàn cầu” với mục tiêu Chính phủ Mỹ, doanh nghiệp Mỹ và các đối tác tham gia xây dựng đẩy mạnh nền tảng cung ứng, trong đó có doanh nghiệp Việt Nam, đưa doanh nghiệp Việt tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tuy nhiên, theo bà, cơ hội này chỉ có thể kéo dài 1-2 năm, dòng vốn đầu tư cùng các nhà đầu tư cũng có hạn. Việt Nam không phải là nước có lợi thế duy nhất trong khu vực.
“Một năm trở lại đây chúng ta thấy rõ sự thay đổi nhanh chóng trong thu hút đầu tư của Malaysia, Indonesia, Singapore… để thu hút dòng đầu tư. Nhiều nhà đầu tư đã tìm hiểu Việt Nam nhưng sau đó cũng đã có nhiều lý do để đầu tư ở thị trường khác. Điều đáng tiếc là con số đầu tư đó lớn mà khi họ lựa chọn đầu tư ở nước khác ngoài Việt Nam, sẽ thu hút các doanh nghiệp tạo ra hệ sinh thái tại quốc gia đó”, bà Lâm lưu ý và đồng thời khẳng định cơ hội sẽ qua đi rất nhanh nên chúng ta cần nắm bắt nhanh chóng.
Từ những nhận định trên, bà Lâm đưa ra khuyến nghị đối với các doanh nghiệp. Thứ nhất, doanh nghiệp không thể tự làm một mình, doanh nghiệp cũng còn nhiều hạn chế không thể so sánh với các “gã khổng lồ”. Ví dụ như các thành viên trong chuỗi giá trị của Apple hiện cũng chưa có nhiều doanh nghiệp Việt. Do đó, cần có chính sách đồng bộ thậm chí đột phá, nhất là khi các quốc gia xung quanh có chính sách mạnh mẽ và táo bạo. Chẳng hạn như cho phép thử nghiệm các sandbox tạo thu hút trong bối cảnh Việt Nam đang xây dựng Luật khuyến khích công nghiệp công nghệ số, Chiến lược phát triển ngành bán dẫn,… Thứ hai, về phía doanh nghiệp phải nhanh nhạy, chuẩn bị cho bước chuyển mình, nắm bắt các xu thế như tín chỉ xanh, kinh tế số… để nắm bắt xu thế mới, tăng cường xuất khẩu hàng hoá, tạo cho doanh nghiệp thế mạnh về cạnh tranh.
Có mặt tại phiên thảo luận, bà Đỗ Thị Thúy Hương - Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam (VASI) cho biết, ngành công nghiệp Việt Nam có đóng góp lớn vào giá trị sản xuất công nghiệp và giá trị xuất khẩu cả nước. Trong vòng 10 năm, xuất khẩu điện tử chiếm trên 30% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam và đứng đầu trong các ngành chế biến chế tạo.
Mặc dù năm 2023 đã chứng kiến sự suy giảm xuất khẩu điện tử, tuy nhiên, quý I/2024 ngành điện tử đã chứng kiến sự phục hồi, chiếm giá trị trên 30% tổng giá trị xuất khẩu cả nước, với xuất siêu 4,2 tỷ USD. Nhập khẩu vẫn còn phụ thuộc khá lớn vào Trung Quốc do quốc gia này vẫn là “vựa nguyên liệu” lớn của thế giới.
Hầu hết Việt Nam vẫn đang xuất khẩu nguyên liệu thô và nhập khẩu các nguyên liệu tinh từ nước ngoài. Do đó, cần có quy định khuyến khích chế biến chế tạo sâu để tạo sự bứt phá trong ngành chế biến chế tạo.
Trên thực tế, ngành chế biến chế tạo của Việt Nam vẫn có vị thế nhất định trên trường thế giới. Tuy nhiên, trong “giá trị đường cong nụ cười” của chuỗi cung ứng toàn cầu, lĩnh vực công nghiệp điện tử Việt Nam nói riêng và công nghiệp chế biến chế tạo nói chung vẫn đang ở vùng “đáy” của đường cong, tập trung vào phần sản xuất và chưa tham gia vào các công đoạn mang lại giá trị gia tăng cao hơn như logistics thu mua, logistics phân phối…
Theo bà Hương, hiệu quả kết nối của chuỗi cung ứng với các doanh nghiệp nội địa ngành điện tử tại Việt Nam mang lại bao gồm: Chuỗi cung ứng được đầu tư tương đối dầy đủ nhưng mạnh về sản xuất gia công linh kiện, cụm linh kiện; Mặc dù kim ngạch xuất khẩu của ngảnh điện tử lớn, nhưng lợi nhuận từ gia công là thấp.Việc gia công sản xuất điện từ tại Việt Nam do các thương hiệu và nhà sản xuất linh kiện hàng đầu dẫn đầu.
Bên cạnh đó, tính kết nối của doanh nghiệp nội địa Việt Nam với các thương hiệu lớn còn yếu, luôn ở thế bị động, thiệt thòi trong đàm phán đơn hàng và giá cả. Nhiều chính sách của Chính phủ vẫn chưa đi sâu vào với doanh nghiệp.
Việt Nam đã thành công trong thu hút FDI và hình thành chuỗi cung ứng, bởi những yếu tố như khung pháp lý và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển ngành công nghiệp điện tử, nhưng vẫn còn nhiều thách thức.
Cụ thể, một số lợi thế đang trờ thành thách thức nhu nguồn lao động không còn dồi dào; tác động từ các Hiệp định thương mại thương mại tự do thế hệ mới gây sức ép về sản xuất xanh, sạch; các thị trường xuất khẩu trọng điểm như Mỹ, EU ngày càng gia tăng các quy định khó khăn, tạo rào cản cho doanh nghiệp. Xu hướng toàn cầu chuyển đổi xanh, sạch là cơ hội cho các doanh nghiệp đã sẵn sàng nhưng cũng là thách thức cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam khi chưa đủ nguồn lực.
Bà Hương cho biết, các doanh nghiệp điện tử Việt Nam luôn nỗ lực, không bị động trước các thách thức và khó khăn. Để các doanh nghiệp có thể vươn lên, tham gia mạnh hơn và sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, bà Hương cho rằng, các doanh nghiệp luôn cần thấy hết khó khăn, tận dụng tối đa các cơ hội, hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức Hiệp hội ngành hàng, các tổ chức, dự án quốc tế trong đào tạo, nâng cao năng lực doanh nghiệp.
Chia sẻ tại phiên thảo luận, ông Trịnh Quang Khanh – Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam cho biết, kinh doanh xăng dầu những năm qua đã đáp ứng đủ nhu cầu của nhân dân, do đó cần tạo cơ chế cho ngành xăng dầu phát triển trước những biến động của kinh tế thế giới.
Ông Khanh cũng cho rằng giá xăng dầu chưa phản ánh đúng chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong khi chi phí này liên tục biến động, nếu không tính toán kỹ sẽ dẫn đến sự gia tăng sẽ dẫn đến khó khăn cho doanh nghiệp.
Trong bối cảnh Nghị định mới về kinh doanh xăng dầu đang được xây dựng, để giảm các gánh nặng mục tiêu cho ngành, các cơ chế, chính sách mới cần xoay quanh mục tiêu đảm bảo hài hòa lợi ích Nhà nước – doanh nghiệp – người tiêu dùng. Đồng thời, đưa chi phí của giá xăng dầu để thị trường quyết định, trở về đúng nguyên tắc của nền kinh tế thị trường. Cùng với đó, theo ông Khanh, cần bổ sung lại quy định cho các doanh nghiệp được giao dịch qua sàn giao dịch của Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam để bảo hiểm giá, bảo đảm lợi nhuận trong nhiều kịch bản khác nhau trước những biến động của giá dầu thế giới, từ đó bảo đảm nguồn cung ổn định.
“Ngoài ra, các cơ quan quản lý cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp về đất đai xây dựng, đấu nối giao thông về khoảng cách và các thủ tục đầu tư xăng dầu. Bởi hiện nay, xây dựng một cửa hàng xăng dầu rất khó khăn” – ông Khanh bày tỏ.
Theo bà Nhữ Thị Ngần, Tổng Giám đốc Hanoi Tourism, đây là mùa cao điểm du lịch trong năm nhưng các doanh nghiệp gần như “nằm im”, số lượng doanh nghiệp giảm đi nhiều, chi tiêu cũng thắt chặt hơn tức hành vi khách hàng đã thay đổi.
Trước thực tế này, chúng tôi đề xuất phát triển thị trường mở rộng tệp khách hàng. Ngoài việc mở rộng tệp khách và thị trường điểm đến, cũng cần mở rộng thêm sản phẩm tiêu dùng trên chính tệp khách quen đó. Làm chuyên sâu khác biết các sản phẩm cũ. Hiện chưa có nhiều địa phương và doanh nghiệp chú trọng làm mới sản phẩm, chúng ta quảng bá phải giữ nét truyền thống nhưng phải làm đặc thù khác biệt giữa các địa phương khiến khách hàng quay lại nhiều lần.
Bên cạnh đó, cần nâng cấp khả năng thích nghi của doanh nghiệp. Chúng tôi lập danh mục các nhà cung ứng trong chuỗi của mình, liên kết với họ tạo ra sản phẩm có tính khác biệt cam kết cao. Khách hàng hiện đánh giá chất lượng dịch vụ chưa đồng đều, do đó chúng tôi đưa ra các cam kết đó đảm bảo sản phẩm được chất lượng tốt nhất.
Chúng tôi cũng cơ cấu toàn bộ sản phẩm, làm mới, khác biệt hoá. Hiện các công ty đều có lịch trình, sản phảm đóng gói fix cứng. Chúng tôi hiện bán thêm các sản phẩm, khách hàng đi đến đâu có thể mua tới đó, tiêu dùng theo cảm xúc. Đây cũng là giải pháp nhưng cũng đi kèm thách thức mà chúng tôi phải đối mặt.
Đặc biệt, chúng tôi quan tâm tới tái cơ cấu doanh nghiệp, đáp ứng tính bền vững. Hiện các đối tác và khách hàng cũng quan tâm tới các điểm đến xanh, tư duy xanh trong chính nguồn nhân lực, thiết kế sản phẩm…chúng tôi đang chú trọng xây dựng toàn bộ quy trình vận hành và mục tiêu của doanh nghiệp theo hướng đó, thích nghi biến động thị trường.
Chia sẻ tại phiên thảo luận, ông Ngô Sỹ Hoài - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cho biết, 6 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu gỗ có tín hiệu đáng mừng với kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm ngoái. Hiện, xuất khẩu gỗ đã vươn đến 170 thị trường trên thế giới, trong đó 5 thị trường Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc và EU chiếm trên 90% kim ngạch xuất khẩu.
Tuy nhiên, theo ông Hoài, việc phụ thuộc xuất khẩu quá nhiều vào một số thị trường cũng khiến doanh nghiệp đối mặt với một số rủi ro, chẳng hạn như thị trường Mỹ là nguy cơ rủi ro liên quan đến cuộc điều tra phòng vệ thương mại, bán phá giá, lẩn tránh thuế…
Việc đa dạng chuỗi cung ứng với các doanh nghiệp trong ngành gặp một số khó khăn, theo ông Ngô Sỹ Hoài, có doanh nghiệp tìm được đối tác xuất khẩu tại thị trường châu Phi, Nam Mỹ nhưng phải liên kết với các nhà cung ứng tại Brazil đưa sản phẩm tới Nam Mỹ. Tuy nhiên, hiệu quả nhận được chưa như mong muốn.
Ông Hoài cho biết, trong ngành gỗ, hiện đang có xu hướng là tạo nguồn cung thân hữu. Chẳng hạn, một số doanh nghiệp xuất khẩu sang EU đang được yêu cầu cung cấp sản phẩm sơ chế sang một số nước Đông Âu để làm thành phẩm rồi mới phân phối sang các nước châu Âu. Làm như vậy tiết kiệm chi phí, tránh rủi ro, bất trắc. Thị trường Mỹ cũng vậy, muốn sản xuất đồ gỗ từ một số nước lân cận rồi đưa sang thị trường Mỹ, vận chuyển dễ dàng hơn nhiều.
Hiện các doanh nghiệp gỗ Việt Nam đang khá lúng túng trước xu thế này bởi chúng ta chưa có doanh nghiệp đủ mạnh để liên kết, đưa sản phẩm sơ chế, nguyên liệu sang nước khác như vậy.
Ông Ngô Sỹ Hoài cho rằng, doanh nghiệp hiện nay đang khó khăn, cạnh tranh quyết liệt, yêu cầu về thị trường ngày càng khắt khe hơn. Từ thực tế này, ông Ngô Sỹ Hoài kiến nghị Chính phủ cần khơi dậy tinh thần và niềm tin kinh doanh với các doanh nghiệp, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, trong đó có khó khăn, thách thức liên quan đến hoàn thuế VAT; có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong nước trong liên kết, hợp tác với doanh nghiệp FDI; quan tâm hỗ trợ cho phép doanh nghiệp FDI tham gia Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam…
Phát biểu kết luận tại Diễn đàn, ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch VCCI cho biết, với những ý kiến phân tích cụ thể, cùng các nhiệm vụ cấp thiết phải làm trong thời gian tới, VCCI sẽ tiếp tục ghi nhận, chắt lọc và báo cáo, tham mưu cho các cơ quan liên quan để chỉnh sửa, bổ sung nhằm giúp các chính sách đi được vào cuộc sống, để các doanh nghiệp được thụ hưởng lợi ích từ các chính sách. Từ đó tiếp cận chuỗi cung ứng, phát triển được thị trường, nâng cao khả năng thích ứng và gia tăng hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ có như vậy mới tạo được việc làm thỏa đáng, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người lao động.
Có thể bạn quan tâm
15:22, 26/06/2024
15:20, 26/06/2024
15:16, 26/06/2024
14:50, 26/06/2024
14:17, 26/06/2024