Xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường Mỹ đang chịu áp lực lớn bởi chính sách thuế, khiến đơn hàng của doanh nghiệp chững lại.
Theo bà Kim Thu - Chuyên gia thị trường tôm, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), trong tháng 7/2025, xuất khẩu tôm Việt Nam đạt 410 triệu USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm 2024. Tính chung 7 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu tôm đạt 2,5 tỷ USD, tăng 24% so với cùng kỳ.
Về thị trường xuất khẩu, bà Kim Thu cho biết, xuất khẩu tôm sang Mỹ trong tháng 7/2025 đạt 63 triệu USD, giảm 29% so với cùng kỳ. Lũy kế 7 tháng, đạt 404 triệu USD, chỉ tăng 3%. Sau giai đoạn tăng mạnh vào tháng 5-6 nhờ đơn hàng “né thuế”, xuất khẩu sang Mỹ giảm tốc khi thuế đối ứng 20% đối với hàng tôm từ Việt Nam bắt đầu tác động, kết hợp với nguy cơ thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp ở mức cao. Biên lợi nhuận bị thu hẹp khiến các doanh nghiệp phải cân nhắc lại chiến lược giá và cơ cấu đơn hàng.
Theo chuyên gia của VASEP, xuất khẩu tôm sang thị trường Mỹ – chiếm tỷ trọng lớn thứ hai sau Trung Quốc, đang chịu áp lực lớn bởi chính sách thuế, khiến đơn hàng của doanh nghiệp chững lại. So với các đối thủ như Ecuador (thuế chỉ 15%) hay Indonesia và Philippines (19%), tôm Việt Nam đang dần mất lợi thế với mức thuế đối ứng 20%.
“Ngành tôm đang bước vào giai đoạn khó khăn khi kết quả sơ bộ POR19 do Bộ Thương mại Mỹ công bố hồi tháng 6 cho thấy mức thuế chống bán phá giá tăng cao đối với nhiều doanh nghiệp lớn. Nếu mức thuế này không được điều chỉnh trong kết quả cuối cùng vào tháng 12, tôm Việt có nguy cơ bị loại khỏi thị trường Mỹ”, chuyên gia của VASEP đánh giá.
Trong khi đó, xuất khẩu tôm sang thị trường Trung Quốc & Hồng Kông tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu với kim ngạch 710 triệu USD, tăng tới 78%, chiếm 29% tổng xuất khẩu tôm. Riêng tháng 7, xuất khẩu đạt 115 triệu USD, tăng 63% so với cùng kỳ.
“Nhu cầu tiêu thụ nội địa và hoạt động nhập khẩu phục hồi mạnh, đặc biệt với nhóm sản phẩm tôm hùm, cùng lợi thế địa lý và chi phí logistics thấp, giúp Việt Nam cạnh tranh tốt hơn với các đối thủ”, chuyên gia của VASEP đánh giá.
Xuất khẩu tôm sang thị trường khối CPTPP đạt 699 triệu USD trong 7 tháng, tăng 36%, chiếm 28% tổng giá trị. Trong đó, Nhật Bản – thị trường lớn nhất trong khối đạt 320 triệu USD, tăng 15% so với cùng kỳ. Riêng tháng 7 giảm nhẹ 1,4% so với cùng kỳ do đồng Yên yếu tiếp tục gây áp lực lên sức mua. Tuy vậy, Nhật Bản vẫn ưa chuộng các sản phẩm giá trị gia tăng, chế biến sẵn, giúp duy trì đơn hàng ở mức ổn định.
Xuất khẩu tôm sang thị trường EU trong 7 tháng đầu năm đạt 309 triệu USD, tăng 17% so với cùng kỳ, trong đó Đức và Pháp ghi nhận mức tăng cao lần lượt 28% và 17%. Tháng 7, xuất khẩu sang EU đạt 57 triệu USD, tăng 21% so với cùng kỳ. Bà Kim Thu cho rằng, khối này hưởng lợi từ EVFTA, nhu cầu ổn định khi lạm phát hạ nhiệt, và ưu tiên sản phẩm chế biến giá trị gia tăng.
Đối với thị trường Hàn Quốc, xuất khẩu tôm đạt 203 triệu USD, tăng 13%, và chiếm 8% tổng giá trị. Đây là thị trường ổn định nhờ nhu cầu tôm chế biến và sản phẩm tiện lợi cho kênh HORECA, đồng thời sức tiêu thụ duy trì tốt trong bối cảnh kinh tế nội địa ít biến động.
Cũng theo bà Kim Thu, tôm chân trắng vẫn chiếm ưu thế trong cơ cấu sản phẩm tôm xuất khẩu. Cụ thể, trong 7 tháng đầu năm, xuất khẩu tôm chân trắng đạt 1,6 tỷ USD, chiếm 63% tổng kim ngạch xuất khẩu tôm, tăng 8% so với cùng kỳ. Tôm sú đạt 260 triệu USD, tăng 5%, chiếm 10%. Tôm loại khác đạt 657 triệu USD, tăng mạnh 117%, nhờ các đơn hàng tôm đông lạnh từ thị trường châu Á.
Dự báo cả năm, bà Kim Thu cho biết, xuất khẩu tôm có thể đạt 3,6 - 3,8 tỷ USD trong kịch bản doanh nghiệp tiếp tục khai thác tốt thị trường châu Á, EU, các nước CPTPP và đẩy mạnh sản phẩm giá trị gia tăng sang Nhật Bản.
Tuy nhiên, bà cũng cho rằng, tốc độ tăng trưởng có thể chậm lại trong nửa cuối năm nếu Mỹ tiếp tục giảm nhập khẩu từ Việt Nam do tác động của thuế đối ứng và các biện pháp phòng vệ thương mại. Trong khi đó, các đối thủ như Ecuador, Indonesia, Philippines đang duy trì mức thuế nhập khẩu thấp hơn, tạo áp lực cạnh tranh lớn hơn.
“Để giữ đà tăng trưởng, doanh nghiệp cần chủ động đa dạng hóa thị trường, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến, đáp ứng yêu cầu chứng nhận khắt khe và xây dựng chiến lược giá phù hợp với biến động chính sách quốc tế”, bà Kim Thu nhấn mạnh.