“Hạ nhiệt” chi phí logistics (Kỳ I): Mấu chốt là phát triển kết cấu hạ tầng

THY HẰNG 07/12/2020 05:30

Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng logistics (hạ tầng cứng và hạ tầng mềm), tập trung vào lĩnh vực vận tải và vùng kinh tế trọng điểm, góp phần giảm chi phí logistics.

Mặc dù được ví như những “bánh xe” trong “cỗ xe” nền kinh tế, tuy nhiên nhiều điểm yếu cố hữu đang khiến chi phí logistics của Việt Nam kém cạnh tranh. Vậy cần những giải pháp nào để giảm chi phí logistics, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá doanh nghiệp Việt?

Chi phí logistics làm giảm đáng kể khả năng cạnh tranh hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam.

Chi phí logistics cao làm giảm đáng kể khả năng cạnh tranh hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam.

Theo thống kê của công ty nghiên cứu uy tín Armstrong & Associates (Hoa Kỳ), chi phí dịch vụ logistics tại Việt Nam tương đương 20,9% GDP, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore, cao gần gấp hai lần so với các nước phát triển và cao hơn mức bình quân toàn cầu là 14%.

Niên giám thống kê vận tải và logistics của Ngân hàng Thế giới và Bộ GTVT năm 2018 vừa công bố vào tháng 5/2020 cho thấy, chi phí logistics trung bình chiếm 8,69% với các doanh nghiệp sản xuất và 9,7% doanh nghiệp phân phối, bình quân là 9,37% với các doanh nghiệp sản xuất và phân phối. Điều này làm giảm đáng kể khả năng cạnh tranh hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam.

Trao đổi với DĐDN, ông Đào Trọng Khoa, Phó chủ tịch Hiệp hội Logisitcs Việt Nam (VLA) cho biết, để giải quyết thực tế này, yêu cầu trước tiên giúp giảm chi phí logistics, nâng cao năng lực cạnh tranh là tiếp tục đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng logistics (hạ tầng cứng và hạ tầng mềm), tập trung vào lĩnh vực vận tải và vùng kinh tế trọng điểm, qua đó góp phần giảm chi phí logistics một cách căn cơ.

Theo đó, xây dựng thêm các cảng biển nước sâu phục vụ cho chuyên chở hàng hóa nội vùng châu Á, Đông Bắc Á và Châu Âu, Châu Mỹ. Hiện tổng công suất của hệ thống cảng biển Việt Nam khoảng 550 triệu tấn hàng hóa/năm, trong khi đó hàng hóa thông qua cảng biển năm 2019 là 655 triệu tấn, trong đó hàng container là 19,346 triệu TEU, mức tăng trung bình năm là từ 10% - 14%. Nhiều tàu phải làm hàng ngoài phao.

“Khi thực hiện đầy đủ cam kết của các Hiệp định FTA thế hệ mới - đặc biệt là EVFTA, CPTPP và RCEP, hàng hóa thông qua cảng biển sẽ tăng nhanh. Đặc biệt là khu vực đồng bằng Sông Cửu Long - nơi tập trung xuất khẩu lúa gạo, thủy sản, trái cây của cả nước - cần sớm có luồng tàu và cảng có thể cho tàu trọng tải 20.000 DWT trở lên vào ra chở hàng thường xuyên”, VLA phân tích.

Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh việc phát triển đường cao tốc Bắc - Nam, qua đó rút ngắn thời gian vận chuyển Bắc - Nam. Phát triển và cải thiện giao thông kết nối Đồng bằng Sông Cửu Long - TP. HCM-  Bà Rịa - Vũng Tàu, nhất là kết nối với Trung tâm logistics Cái Mép Hạ và cảng nước sâu. Hiện nay, Khu vực đồng bằng Sông Cửu Long chỉ có khoảng 40km đường cao tốc trong tổng số khoảng 1.000km của cả nước

Đầu tư phát triển đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam và cải thiện các tuyến đường thủy nội địa, tập trung vào cảng và phương tiện xếp dỡ. Sử dụng hai phương thức này hỗ trợ việc chuyển đổi các phương thức vận tải, chuyển từ vận tải đường bộ. Phát huy tác dụng của vận chuyển đường sắt, vận chuyển hàng hóa quả tươi xuất khẩu qua Trung Quốc thay cho đường bộ, cắt giảm được thủ tục tại biên giới và cước vận chuyển so với đường bộ.

Đặc biệt, lãnh đạo Hiệp hội Logisitcs nhấn mạnh tới yêu cầu phát triển các Trung tâm dịch vụ logistics phục vụ cho phát triển kinh tế và xuất nhập khẩu vùng, nhất là khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, TP. Hồ Chi Minh và Hải Phòng.

“Đi đôi với phát triển các Trung tâm logistics vùng là xây dựng các cảng cạn (ICD) khu vực có quy mô lớn, gần cảng biển”, lãnh đạo VLA nhấn mạnh. Ví dụ như hình thức ICD Long Biên, Hà Nội, có tổng diện tích 120.000m2, công suất khai thác 123.000 TEUs, được quy hoạch khoa học và trang bị hệ thống máy móc thiết bị hiện đại, hoạt động 24/7, phục vụ hàng hóa vận chuyển bằng đường biển và đường không. ICD Long Biên dễ dàng kết nối các tỉnh thành phía Bắc, là nơi thông quan, điểm trung chuyển và phát triển dịch vụ vận chuyển hàng hóa xuyên biên giới với Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Camphuchia… Hàng khi cập cảng Hải Phòng sẽ được kéo thẳng về ICD Long Biên mới mở tờ khai, doanh nghiệp không phải đến cửa khẩu nhận/lấy hàng, tiết kiệm được thời gian, giảm chi phí logistics.

Cùng với đó, phát triển một trung tâm logistics cho đồng bằng Sông Cửu Long ở TP. Cần Thơ, sẽ tập trung được hàng hóa đủ cho việc vận chuyển hàng hóa xuất khẩu, tận dụng được phương tiện chuyên chở.

chi phí dịch vụ logistics tại Việt Nam tương đương 20,9% GDP, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore

Chi phí dịch vụ logistics tại Việt Nam so với GDP ở mức cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore.

Đặc biệt, tập trung đầu tư phát triển kho bãi đông lạnh và chuỗi cung ứng lạnh phục vụ trực tiếp cho việc sản xuất, tiêu dùng nội địa và xuất khẩu hàng thủy sản, nông sản, rau quả.

Trên thực tế, hiện tại, cả nước mới có 48 kho lạnh với công suất khoảng 600.000 pallets, trong đó miền Nam có 36 kho, miền Bắc có 11 kho và miền Trung chỉ có 1 kho lạnh. Cả nước cũng mới có hơn 700 xe lạnh và 450 toa xe lửa chuyên chở container chở hàng lạnh.

Trong khi đó, dù chuỗi cung ứng lạnh mang lại lợi ích thiết thực trong giảm chi phí sản xuất kinh doanh, chi phí logistics, tuy nhiên, quy hoạch kho lạnh chưa đồng bộ trong cả nước, chưa đáp ứng được yêu cầu, mới đáp ứng từ 30% - 35% yêu cầu. Hệ thống kho lạnh mới tập trung vào phục vụ xuất nhập khẩu là chính, bên cạnh phục vụ thị trường nội địa.

Do đó, yêu cầu cần phát triển và sử dụng hiệu quả kho lạnh ngoại quan, giảm chi phí logistics cho hàng xuất nhập khẩu. Đây là một hoạt động logistics cần được quan tâm đầu tư phát triển cả kết cấu hạ tầng và quy chế pháp luật điều chỉnh.

Thực tế nhiều doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics cũng cho biết rất quan tâm sử dụng kho lạnh và kho lạnh ngoại quan, tuy nhiên, cần được tháo gỡ về mặt cơ chế, chính sách. Trong đó, đáng nói là chính sách về giá điện cho kho lạnh. Hiện nay, giá điện cho kho lạnh của các doanh nghiệp logistics cao hơn giá điện cho sản xuất hàng đông lạnh từ 25% - 30% trong khi chi phí điện năng cho kho lạnh chiếm từ 30% - 35% giá thành sản xuất của kho lạnh, qua đó làm cho chi phí logistics hàng đông lạnh xuất nhập khẩu và tiêu dùng nội địa đang ở mức cao, doanh nghiệp kiến nghị cần giảm giá điện cũng là để giảm chi phí logistics.

Bên cạnh giải quyết vấn đề hạ tầng cứng, VLA cũng khuyến nghị cần căng cường việc chuyển đổi số trong các hoạt động logistics (hạ tầng mềm), ứng dụng công nghệ block-chain, trí tuệ nhân tạo... thực hiện e-DO và e-B/L, hệ thống quản lý vận tải, cảng biển... 

Trong đó, VLA đề xuất phát triển một nền tảng trục để kết nối các ứng dụng công nghệ có sẵn nhằm phục vụ chung cho cả cộng đồng cung cấp dịch vụ logistics và cộng đồng chủ hàng (sản xuất và xuất nhập khẩu). Ứng dụng thành công công nghệ số sẽ hỗ trợ rất lớn việc cắt giảm chi phí logistics, nhất là phát triển Agro-logistics của Việt Nam.

“Hạ nhiệt” chi phí logistics (Kỳ II): Liên kết ngang – dọc

Có thể bạn quan tâm

  • Hải Phòng cần làm gì để phát triển nguồn nhân lực logistics chất lượng cao?

    13:05, 02/12/2020

  • Gỡ điểm nghẽn hạ tầng logistics

    05:30, 28/11/2020

  • Ba điểm yếu cố hữu khiến chi phí logistics Việt thiếu cạnh tranh

    13:02, 26/11/2020

  • FTA thế hệ mới và cơ hội cho logistics Việt Nam

    11:47, 26/11/2020

  • Ngành logistics vượt rào cản nội tại

    04:15, 13/11/2020

  • Cảng biển và chuỗi logistics hàng hải quốc tế

    05:00, 01/11/2020

(0) Bình luận
Nổi bật
Mới nhất
“Hạ nhiệt” chi phí logistics (Kỳ I): Mấu chốt là phát triển kết cấu hạ tầng
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO