TP Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, TP Hà Nội, TP Đà Nẵng, TP Cần Thơ là những địa phương ưu tiên hình thành các trung tâm dịch vụ logistics hiện đại ngang tầm quốc tế.
Chiến lược phát triển dịch vụ Logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến 2050. Đây là lần đầu tiên, Việt Nam có một chiến lược tổng thể, dài hạn và đồng bộ cho ngành logistics, xác định rõ vai trò là ngành kinh tế quan trọng, có giá trị gia tăng cao và là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, Trưởng Ban soạn thảo Chiến lược nhấn mạnh, Chiến lược được ban hành là một động lực quan trọng, khởi đầu cho một quá trình dài với khối lượng công việc rất lớn.
Trong đó, về việc phát triển các trung tâm dịch vụ logistics quốc tế, Phó Cục trưởng cho biết: “Chiến lược đưa ra kế hoạch 5 đề án sẽ giao các địa phương gồm TP Hải Phòng, TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, TP Đà Nẵng, TP Cần Thơ phát triển thành trung tâm dịch vụ logistics hiện đại mang tầm khu vực Đông Nam Á và tiến tới của quốc tế. Đây là không gian phát triển kinh tế - dịch vụ tích hợp hạ tầng, công nghệ và dịch vụ hỗ trợ logistics, phục vụ thương mại điện tử, nông sản và xuất nhập khẩu”.
Việc triển khai Chiến lược đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và các địa phương, để tạo ra hệ thống logistics hiện đại, hiệu quả và bền vững. Việc theo sát và đưa thông tin về chiến lược cũng là cơ hội để doanh nghiệp hiểu rõ hơn về các ưu tiên, giải pháp và cơ chế hỗ trợ, từ đó tham gia tích cực vào quá trình phát triển dịch vụ logistics quốc gia.

TS Bùi Bá Nghiêm, Phó Trưởng Ban soạn thảo Chiến lược cho biết, Chiến lược đưa ra 6 quan điểm nổi bật và 9 nhóm giải pháp trọng tâm để hiện thực hóa các mục tiêu.
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Trong đó, xây dựng mô hình hải quan số, hải quan thông minh là giải pháp then chốt, giúp rút ngắn thời gian thông quan, giảm chi phí và minh bạch hóa quy trình. Bộ tiêu chí phân loại trung tâm logistics sẽ tạo cơ sở cho quy hoạch, quản lý hiệu quả và thu hút đầu tư. Rà soát, sửa đổi, bổ sung pháp luật liên quan đến logistics, cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng chứng từ điện tử và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia - quốc tế là nền tảng pháp lý quan trọng. Các trung tâm logistics sẽ được ưu tiên phát triển tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế và Cần Thơ, gắn với cảng biển, sân bay quốc tế.
Thứ hai, phát triển kết cấu hạ tầng logistics hiện đại và đồng bộ. Chiến lược tập trung xây dựng các trung tâm logistics quy mô lớn tại các vùng kinh tế trọng điểm, nâng cấp cảng biển, cảng hàng không, cảng cạn, đường sắt liên vận quốc tế, đồng thời phát triển hạ tầng logistics phục vụ thương mại điện tử, kho thông minh và logistics đô thị xanh, giảm chi phí vận tải, nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng.
Thứ ba, thúc đẩy liên kết vùng trong phát triển dịch vụ logistics. Hình thành các vùng động lực logistics tại Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và miền Trung, trong đó Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng là các cực tăng trưởng chính. Các hành lang kinh tế trọng điểm sẽ kết nối bằng hệ thống hạ tầng hiện đại, tăng cường liên kết vùng và quốc tế.
Thứ tư, xây dựng nguồn hàng, phát triển thị trường logistics. Chiến lược khuyến khích thu hút đầu tư từ các tập đoàn sản xuất - phân phối lớn, xây dựng khu thương mại tự do, khu phi thuế quan, giúp Việt Nam trở thành trung tâm trung chuyển hàng hóa khu vực. Đồng thời phát triển dịch vụ logistics chuyên biệt cho nông sản, công nghiệp chế biến và thương mại điện tử xuyên biên giới.
Thứ năm, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp logistics. Chuyển đổi số giúp tối ưu hóa lộ trình, tự động hóa kho bãi; chuyển đổi xanh tập trung sử dụng năng lượng tái tạo, phát triển phương tiện vận tải ít phát thải, hướng tới cam kết trung hòa phát thải vào năm 2050. Chiến lược hỗ trợ hình thành các doanh nghiệp logistics mạnh, cung cấp dịch vụ tích hợp 4PL, 5PL, vươn ra thị trường quốc tế, đồng thời kết nối doanh nghiệp trong nước với FDI.
Thứ sáu, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và logistics xanh. Ứng dụng công nghệ như AI, dữ liệu lớn, blockchain trong quản lý chuỗi cung ứng, phát triển hải quan số, logistics xanh giảm phát thải và tiến tới trung hòa carbon.
Thứ bảy, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Mục tiêu 70-90% lao động ngành logistics được đào tạo chuyên môn, trong đó một nửa có trình độ đại học trở lên vào năm 2050. Bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia về logistics được xây dựng, kết nối đào tạo với các cơ sở quốc tế, nâng cao kỹ năng thực tiễn và khả năng hội nhập toàn cầu.
Thứ tám, phát huy vai trò hiệp hội và doanh nghiệp tiên phong. Khuyến khích hình thành doanh nghiệp logistics dẫn dắt thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp khác cùng phát triển. Hiệp hội logistics là cầu nối giữa doanh nghiệp và Nhà nước, thúc đẩy chuỗi cung ứng hiện đại, tổ chức diễn đàn, hội nghị và triển lãm quốc tế quảng bá logistics Việt Nam.
Thứ chín, các nhiệm vụ khác. Bộ Công Thương chủ trì phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và hiệp hội triển khai Kế hoạch hành động, tổ chức sơ kết, tổng kết và báo cáo Thủ tướng. Các bộ, ngành khác được phân công cụ thể từ đầu tư hạ tầng, đào tạo nhân lực, xây dựng tiêu chuẩn đến phát triển hải quan số và khu thương mại tự do.