VCCI góp ý tập trung vào nhiều quy định chưa rõ ràng, dễ gây hiểu nhầm hoặc phát sinh vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Trả lời Công văn số 5149/BTC-CST ngày 18/4/2025 của Bộ Tài chính về việc đề nghị góp ý Dự thảo Thông tư quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và hướng dẫn thực hiện Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) (Dự thảo), trên cơ sở ý kiến từ cộng đồng doanh nghiệp, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã có một số góp ý đáng chú ý nhằm hoàn thiện chính sách thuế và tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn triển khai.
Một trong những điểm gây tranh cãi là quy định tại Điều 3 Dự thảo về áp dụng thuế suất 0% đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu. Theo đó, người nộp thuế phải tự xác định hàng hóa, dịch vụ đủ điều kiện hưởng thuế suất ưu đãi, đồng thời phải cung cấp thêm hồ sơ chứng minh khi cơ quan nhà nước yêu cầu.
Đáng chú ý, điểm d khoản 2 Điều 3 yêu cầu cung cấp tài liệu chứng minh dịch vụ được “tiêu dùng ở ngoài Việt Nam” hoặc “trong khu phi thuế quan phục vụ trực tiếp cho sản xuất xuất khẩu”. Tuy nhiên, khái niệm “tiêu dùng ở ngoài Việt Nam” lại chưa được Dự thảo định nghĩa rõ ràng. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp băn khoăn thế nào là tài liệu đủ sức chứng minh?
Trong khi chờ sự hướng dẫn thống nhất, nguy cơ các cơ quan thuế địa phương áp dụng khác nhau là hoàn toàn có thể xảy ra, dẫn tới chi phí tuân thủ và rủi ro pháp lý tăng cao cho doanh nghiệp. Từ thực tiễn quốc tế, các tài liệu chứng minh cho hàng hoá, dịch vụ sử dụng tại khu phi thuế quan là những tài liệu như tờ khai hải quan, hợp đồng, hoá đơn, chứng từ vận chuyển, VCCI kiến nghị cơ quan soạn thảo cần làm rõ khái niệm “tiêu dùng ở ngoài Việt Nam” hoặc áp dụng thống nhất bộ hồ sơ như hướng dẫn tại điểm b khoản 2 Điều 6 của Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế GTGT.
Một điểm thiếu sót khác trong Dự thảo là chưa đề cập tới trường hợp hàng hoá “xuất khẩu tại chỗ”. Đây là hình thức đã được luật hóa trong Dự thảo Luật Hải quan sửa đổi, trong đó quy định cụ thể cơ chế kiểm tra giám sát đối với hoạt động xuất nhập khẩu tại chỗ đã được quy định cụ thể, hàng hoá xuất khẩu tại chỗ được áp dụng mức thuế suất 0% như hàng hoá xuất khẩu.
Từ đó, VCCI đề nghị, Bộ Tài chính xem xét bổ sung hướng dẫn về thuế suất GTGT 0% đối với hàng hóa xuất khẩu tại chỗ, nhằm đảm bảo tính đồng bộ giữa các văn bản pháp luật, đồng thời tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, giao dịch nội địa phục vụ xuất khẩu.
Liên quan đến quy định tại Điều 4 Dự thảo về tỷ lệ % tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, VCCI cho rằng việc sử dụng khái niệm “hoạt động kinh doanh khác” với tỷ lệ 2% mà không có định nghĩa rõ ràng là chưa phù hợp.
Ví dụ cụ thể, trong trường hợp nhà thầu nước ngoài có khoản thu tiền phạt do bên Việt Nam vi phạm hợp đồng thì khoản phạt này có được coi là “hoạt động kinh doanh khác” hay không? Điều 7 và khoản 2 Điều 13 Thông tư 103/2014/TT-BTC quy định tiền phạt, tiền bồi thường thu được từ bên đối tác vi phạm hợp đồng là hoạt động sản xuất, kinh doanh khác phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp trong các hoạt động của nhà thầu với tỷ lệ 2%. Vậy nếu khoản tiền phạt, tiền bồi thường này có được coi là hoạt động kinh doanh khác dưới Luật Thuế giá trị gia tăng và có phải chịu thuế GTGT với tỷ lệ 2% hay không?
Theo VCCI, việc không làm rõ khái niệm sẽ dẫn tới rủi ro doanh nghiệp áp dụng sai, hoặc bị truy thu thuế do cách hiểu không thống nhất giữa các cơ quan chức năng. Vì vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo cần có hướng dẫn cụ thể thế nào là “hoạt động kinh doanh khác”, tránh để quy định mở gây khó khăn khi áp dụng.
Bên cạnh những vấn đề nêu trên, VCCI còn góp ý tập trung vào một số quy định còn thiếu rõ ràng, tiềm ẩn rủi ro vướng mắc khi triển khai trên thực tế như liên quan đến quy định tại Điều 5 Dự thảo về chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài; thuế GTGT áp dụng cho tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam; tổ chức thu thuế GTGT; trường hợp thanh toán không dùng tiền mặt trong khấu trừ thuế GTGT.