Để nâng tầm công nghiệp hỗ trợ trong bối cảnh tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu, không ít ý kiến cho rằng, doanh nghiệp phải xác định rõ hướng đầu tư và chiến lược công nghệ dài hạn.
Theo thống kê của Bộ Công Thương, Việt Nam hiện có hơn 6.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực cơ khí, điện tử, dệt may, da giày. Tuy nhiên, gần 88% trong số này là doanh nghiệp nhỏ và vừa, phần lớn sử dụng thiết bị lạc hậu, thiếu tiêu chuẩn chất lượng.
Đáng nói, chỉ khoảng 10% doanh nghiệp ứng dụng tự động hóa và dưới 20% đạt chứng nhận ISO hoặc áp dụng các mô hình quản trị hiện đại như 5S, Lean, TQM.

Chưa kể, tỷ lệ nội địa hóa của nhiều ngành công nghiệp chủ lực vẫn ở mức thấp. Cụ thể, dệt may – da giày đạt khoảng 45 - 50%, cơ khí chế tạo 15 - 20%, lắp ráp ô tô từ 5 - 20%, chưa đạt mục tiêu 40% nội địa hóa. Ngành điện tử dù có sự hiện diện của nhiều tập đoàn lớn nhưng tỷ lệ linh kiện được sản xuất tại Việt Nam còn hạn chế…
Theo các chuyên gia, hạn chế lớn nhất của ngành công nghiệp hỗ trợ vẫn là năng lực công nghệ, chi phí sản xuất cao, năng lực nghiên cứu, phát triển (R&D) còn yếu, trong khi yêu cầu từ các chuỗi cung ứng toàn cầu ngày càng khắt khe. Trong khi, phần lớn doanh nghiệp vẫn dừng ở mức gia công đơn giản, giá trị thấp, chưa đủ năng lực sản xuất linh kiện có hàm lượng kỹ thuật cao - yếu tố cốt lõi để tham gia sâu và bền vững vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Để khắc phục những hạn chế này, không ít ý kiến cho hay, doanh nghiệp cần đổi mới tư duy quản trị, tăng đầu tư vào R&D, chuyển đổi số và tiêu chuẩn hóa quy trình sản xuất.

Xoay quanh vấn đề đã nêu, đưa ra khuyến nghị trước đó, ông Cao Văn Hùng - Giám đốc phát triển thị trường quốc tế, Công ty CP Cơ khí chính xác Smart Việt Nam cho hay, gia tăng hàm lượng công nghệ là yếu tố quyết định sức cạnh tranh của sản phẩm cũng như của doanh nghiệp.
“Hiện chúng ta chịu sức ép cạnh tranh rất lớn, không chỉ trong nước mà còn từ các nhóm sản xuất khác trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Malaysia. Nếu vẫn loanh quanh trong gia công giá rẻ, chắc chắn doanh nghiệp Việt sẽ gặp vấn đề lớn trong thời gian tới. Gia tăng hàm lượng công nghệ chính là lối thoát duy nhất”, ông Hùng nhấn mạnh.
Liên quan đến vấn đề này, ông Chu Việt Cường - Giám đốc Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương cũng cho biết, giai đoạn 2023 – 2025 là thời kỳ có nhiều chính sách đột phá, đặc biệt là Nghị định số 205/2025/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 111/2015 về phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Nghị định này tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho đổi mới công nghệ, nghiên cứu phát triển, hợp tác công – tư và cho phép các trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp hoạt động linh hoạt, tự chủ hơn về tài chính và hợp tác quốc tế. Điểm mới quan trọng là cơ chế liên kết ba bên Nhà nước – viện, trường – doanh nghiệp nhằm tháo gỡ điểm nghẽn về chuyển giao công nghệ, thử nghiệm và tiêu chuẩn hóa.
“Để chính sách thực sự đi vào đời sống, cần cụ thể hóa bằng hành động, thường xuyên khảo sát, tuyên truyền, phổ biến chính sách đến doanh nghiệp. Các hoạt động hỗ trợ cần đặt doanh nghiệp ở vị trí trung tâm, hướng đến hiệu quả thực tế, giúp họ đổi mới sản xuất, thay vì chỉ dừng ở hỗ trợ thủ tục hành chính. Đồng thời, việc tăng cường liên kết vùng, ngành và chuỗi giá trị sẽ giúp hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tạo sức lan tỏa cho toàn ngành”, ông Cường nhấn mạnh.
Đồng thời cho rằng, con đường gia tăng hàm lượng công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ sẽ không thể thành công nếu chỉ có sự nỗ lực đơn lẻ. Đó phải là quá trình hợp lực của cả “ba bên bốn bề”: Nhà nước tạo cơ chế chính sách thông thoáng; doanh nghiệp chủ động đầu tư, nâng cấp công nghệ; viện, trường cung cấp nguồn nhân lực và chuyển giao tri thức; hiệp hội đóng vai trò cầu nối.
“Chỉ khi doanh nghiệp Việt Nam làm chủ được công nghệ, chủ động tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, chúng ta mới có một nền công nghiệp tự chủ và bền vững”, ông Cường khẳng định.