Ngành hồ tiêu kiến nghị bỏ VAT xuất khẩu vì thu chỉ 55 tỉ nhưng phải hoàn tới 2.135 tỉ. Chuyên gia cho rằng cơ chế thuế này đang bào mòn vốn doanh nghiệp…
Chuyện nghịch lý “thu 1 đồng, hoàn 39 đồng” trong ngành hồ tiêu đang trở thành câu chuyện nóng không chỉ với doanh nghiệp xuất khẩu mà còn với ngân sách Nhà nước.
Trong nhiều năm, các doanh nghiệp xuất khẩu chưa từng thấy gánh nặng thuế VAT lại oái oăm đến vậy. Nguồn thu từ tiêu thụ nội địa gần như không đáng kể, trong khi số tiền hoàn thuế cho xuất khẩu lại khổng lồ, vượt xa số thu được.
Theo Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam (VPSA), năm 2024, sản lượng hồ tiêu cả nước đạt khoảng 200.000 tấn, trong đó hơn 95% được xuất khẩu. Lượng tiêu thụ nội địa chỉ chiếm khoảng 5% sản lượng, tương đương khoảng 5.000 tấn, chủ yếu là sản phẩm chế biến sâu và tiêu dùng trực tiếp. Với thuế suất VAT 5%, số thu từ thị trường trong nước chỉ khoảng 55 tỷ đồng.
Ngược lại, số tiền hoàn thuế VAT cho hồ tiêu xuất khẩu lên tới 2.135 tỷ đồng, tức cứ mỗi đồng thuế thu vào, ngân sách phải hoàn gần 39 đồng. Điều đáng nói là cơ chế này tạo ra áp lực kép cho cả doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý. Doanh nghiệp buộc phải tạm ứng khoản VAT đầu vào lớn, chờ thủ tục hoàn thuế kéo dài, khiến vốn lưu động bị “đóng băng” đúng lúc cần xoay vòng để chốt đơn hàng.
Chênh lệch quá lớn giữa thu và hoàn cũng trở thành kẽ hở cho gian lận, đặc biệt với những hồ sơ xuất khẩu giả. Trong khi đó, cả doanh nghiệp và cơ quan thuế đều tiêu tốn thời gian, nhân lực để xử lý một thủ tục hành chính vừa phức tạp vừa kém hiệu quả.
Từ thực tế này, VPSA kiến nghị bỏ hẳn cơ chế hoàn thuế VAT đối với hồ tiêu xuất khẩu. Thay vào đó, áp dụng thuế suất 0% cho đầu vào phục vụ xuất khẩu hoặc thuế khoán khoảng 0,5% trên kim ngạch xuất khẩu. Với thị trường nội địa, vẫn duy trì VAT 5% để đảm bảo nguồn thu ngân sách.
Hiệp hội cho rằng, nếu làm vậy, doanh nghiệp sẽ giảm gánh nặng vốn, rút ngắn thời gian thủ tục và ngân sách cũng hạn chế được nguy cơ gian lận hoàn thuế.
Từ góc nhìn doanh nghiệp, ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn Intimex – một “ông lớn” trong xuất khẩu nông sản với doanh số hơn 1 tỉ USD/năm đồng tình mạnh mẽ với đề xuất này.
Ông Nam cho rằng, bản chất hàng xuất khẩu không chịu thuế VAT, nên việc phải đóng 5% rồi làm thủ tục hoàn là bất hợp lý và phiền hà. “Nỗi lo lớn nhất của doanh nghiệp xuất khẩu là vốn bị giam lỏng, dòng tiền tắc nghẽn vì khoản thuế GTGT tạm ứng khổng lồ”, ông nói.
Ông Nam đưa ra ví dụ cụ thể: Intimex và các công ty thành viên mỗi tháng xuất khẩu tới 20.000 tấn cà phê với đơn giá 100.000 đồng/kg. Chỉ riêng khoản thuế GTGT tạm đóng đã lên tới 100 tỷ đồng/tháng.
Khoản tiền này bị “giam” trong suốt thời gian chờ hoàn thuế, khiến doanh nghiệp có nguy cơ cạn kiệt tiền mặt vào cuối năm. Đáng lo hơn, ngân hàng không cho vay đối với khoản tiền thuế đang chờ hoàn. Với các hợp đồng Chính phủ (G2G) kéo dài tới 3 năm, vấn đề dòng tiền càng trở nên trầm trọng.
“Trong bối cảnh thị trường thay đổi nhanh, việc vốn bị khóa như vậy chẳng khác nào tự trói tay mình”, ông Nam nhấn mạnh. Theo ông, áp dụng thuế khoán hoặc 0% ngay từ đầu sẽ giúp doanh nghiệp chủ động hơn, giảm áp lực tài chính, duy trì nhịp sản xuất – giao hàng và giảm nguy cơ đổ vỡ hợp đồng.
Dưới góc độ pháp lý, Luật sư Lê Thị Nhung - Giám đốc Công ty Luật L&A Legal Experts phân tích, Luật Thuế GTGT hiện hành cho phép hoàn thuế đầu vào đối với hàng xuất khẩu để tránh đánh thuế trùng. Tuy nhiên, thực tế triển khai phức tạp, tốn thời gian và tiềm ẩn nhiều rủi ro.
“Chỉ cần một sai sót nhỏ trong hồ sơ, doanh nghiệp có thể bị kéo dài thời gian hoàn thuế hoặc bị truy thu. Với doanh nghiệp vừa và nhỏ, đây là áp lực không nhỏ”, bà nhận định.
Theo bà Nhung, áp dụng thuế suất 0% đầu vào hoặc thuế khoán minh bạch sẽ giảm đáng kể thủ tục, hạn chế cơ hội gian lận và vẫn đảm bảo nguồn thu ngân sách.
Nhưng để thực hiện hiệu quả, cần có hướng dẫn chi tiết và cơ chế giám sát chặt chẽ để phân biệt hàng xuất khẩu thực với hàng tiêu thụ nội địa giả danh xuất khẩu. “Nếu thiết kế tốt, chính sách này không chỉ gỡ khó cho doanh nghiệp mà còn giúp cơ quan thuế tập trung vào công tác giám sát thay vì xử lý một khối lượng khổng lồ hồ sơ hoàn thuế”, bà nói.
Trao đổi với Diễn đàn Doanh nghiệp, một số chuyên gia cũng cho rằng, nghịch lý VAT của ngành hồ tiêu không chỉ là bài toán thu, hoàn thuế. Đó còn là thước đo năng lực chính sách thuế trong việc đồng hành cùng doanh nghiệp, tạo động lực cho xuất khẩu. Khi vốn bị giam trong thủ tục, cơ hội thị trường sẽ trôi qua nhanh hơn bất kỳ khoản hoàn thuế nào có thể bù đắp.
Điều chỉnh cơ chế VAT theo hướng hợp lý hơn như 0% đầu vào hoặc thuế khoán minh bạch sẽ không chỉ gỡ nút thắt vốn mà còn giúp tăng sức cạnh tranh của hàng Việt trên thị trường quốc tế.