Để đảm bảo tính nhất quán, hiệu quả, cần phân định rõ trách nhiệm và có cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, cơ quan liên quan trong việc ban hành quy định về quản lý tài sản số.
Cần phối hợp giữa các bộ, ngành
Theo đề xuất trong Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập Trung tâm tài chính khu vực và quốc tế tại Việt Nam của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan quản lý trung tâm tài chính sẽ có thẩm quyền cấp phép, giám sát, đánh giá tác động và kiểm soát rủi ro đối với các hoạt động thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực fintech, bao gồm cả các sàn giao dịch tài sản mã hóa và tiền mã hóa.
Trong khi đó, Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số do Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì lấy ý kiến cũng lần đầu tiên đưa ra định nghĩa về tài sản số. Cụ thể, xem tài sản số là một loại sản phẩm công nghệ số và dự kiến giao Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các bộ, ngành để xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành các quy định về quản lý tài sản số cũng như các tổ chức cung ứng dịch vụ liên quan đến tài sản số.
Có thể thấy, tài sản số không chỉ là một sản phẩm tài chính hay công nghệ, mà còn liên quan đến rất nhiều các lĩnh vực khác nhau, như ngân hàng hay quản trị dữ liệu. Để xây dựng khung pháp lý phù hợp với thực tiễn, việc phân định rõ trách nhiệm giữa các cơ quan liên quan sẽ đóng vai trò quan trọng trong quá trình quản lý tài sản số, đồng thời, cần có cơ chế phối hợp để đảm bảo tính nhất quán và hiệu quả.
Tuy nhiên trong quá trình phối hợp thực hiện quản lý, khó tránh khỏi những chồng chéo, mâu thuẫn giữa các cơ quan. Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả quản lý tài sản số, cần có quy định chi tiết hơn về trách nhiệm, quyền hạn của từng bộ, ban ngành trong hoạt động quản lý tài sản số. Việc phân công nhiệm vụ giữa các cơ quan phải rõ ràng, bảo đảm tính trách nhiệm và quyền hạn của từng đơn vị.
Bên cạnh đó, lãnh đạo có vai trò định hướng, tạo kết nối giữa các bên để cùng đưa ra quan điểm thống nhất trên cơ sở công bằng, khách quan và phù hợp với thực tiễn. Cụ thể là có sự chỉ đạo thống nhất về các chính sách, cũng như quy trình quản lý tài sản số. Qua đó, không chỉ tạo ra một tầm nhìn chung mà còn đảm bảo tính nhất quán giữa các bên trong thực hiện quản lý.
Lưu ý với nhà đầu tư và doanh nghiệp
Trong bối cảnh hành lang pháp lý về quản lý tải sản số còn đang trong quá trình xây dựng, phía doanh nghiệp và nhà đầu tư cũng cần lưu ý một số điểm sau: Thứ nhất, chú trọng vào việc nắm bắt thông tin, nhất là những thông tin liên quan đến khung pháp lý đối với tài sản kỹ thuật số tại Việt Nam đã, đang được cập nhật như thế nào. Việc này giúp các doanh nghiệp và nhà đầu tư đưa ra quyết định sáng suốt, giảm thiểu tối đa những tranh chấp có thể phát sinh mà chưa có quy chế pháp lý điều chỉnh.
Thứ hai, cần đẩy mạnh việc tham vấn ý kiến tư vấn đến từ các chuyên gia pháp lý, đặc biệt là những người am hiểu luật pháp Việt Nam trong lĩnh vực tài sản kỹ thuật số. Những ý kiến tham khảo được từ các chuyên gia pháp lý này sẽ giúp các doanh nghiệp, nhà đầu tư tiên liệu trước các tình huống pháp lý có thể xảy ra. Để từ đó, tự mình dự phòng các giải pháp pháp lý phù hợp đối với từng tình huống, dự thảo hợp đồng với các điều khoản liên quan đến tài sản kỹ thuật số có độ an toàn về mặt pháp lý được đảm bảo cao nhất có thể.
Thứ ba, mỗi doanh nghiệp và nhà đầu tư cần tập trung nguồn lực vào cả hoạt động quản lý rủi ro (Risk Management) và tuân thủ (Compliance). Tính quản trị rủi ro được thể hiện ở khía cạnh trước bất kể một hoạt động đầu tư hay ký kết các thỏa thuận hợp tác kinh doanh, mà trong đó có nội dung liên quan đến tài sản kỹ thuật số thì những thỏa thuận có liên quan cần phải được soát xét pháp lý một cách kỹ lưỡng và nhận diện các rủi ro tiềm ẩn.
Tính tuân thủ sẽ được thể hiện ở khía cạnh mỗi doanh nghiệp, nhà đầu tư cần thực hiện nghiêm túc công tác quản trị tốt, cơ chế báo cáo công khai, minh bạch và các biện pháp an ninh mạng để bảo vệ tài sản kỹ thuật số.
Thứ tư, đối với các giao dịch với đối tác nước ngoài, mỗi doanh nghiệp cần làm tốt công tác đối ngoại bởi thông qua hoạt động này, doanh nghiệp nhà đầu tư có cơ hội tìm hiểu về môi trường pháp lý kinh doanh đối với các tài sản kỹ thuật số, từ đó có thể vận dùng vào trong các thương vụ tiếp theo hoặc chính các doanh nghiệp, nhà đầu tư sẽ có những kiến nghị hoàn thiện thiết thực cho các quy định pháp luật điều chỉnh tài sản kỹ thuật số trong hoạt động kinh doanh tại Việt Nam.
Thứ năm, các doanh nghiệp, đối tác cũng cần phải tích cực tham gia vào các hội thảo khoa học, các diễn đàn trao đổi của các Hiệp hội ngành với những chủ đề liên quan đến pháp luật về tài sản kỹ thuật số. Những diễn đàn này sẽ là kênh thông tin để cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư kết nối, trao đổi, cập nhật các chính sách pháp luật hiện hành về tài sản kỹ thuật số cũng như đề xuất các kiến nghị hoàn thiện.