Doanh nghiệp phải đa dạng hóa thị trường, kênh xuất khẩu, nâng cao cạnh tranh và sức chống chịu trước biến động toàn cầu, xu hướng bảo hộ thương mại, rào cản kỹ thuật ngày càng khắt khe.
Phân tích những dữ liệu từ các thị trường xuất khẩu lớn trên thế giới, cho thấy: trước mắt, doanh nghiệp Việt vẫn duy trì lợi thế cạnh tranh nhưng về lâu dài, cần thực hiện giải pháp tái cấu trúc hoạt động xuất khẩu, tự chủ nguyên liệu sản xuất, đầu tư cho công nghệ xanh… để tiến sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, không bị lệ thuộc vào một vài thị trường quen thuộc.
Đến thời điểm này, Mỹ vẫn là thị trường trọng điểm xuất khẩu của Việt Nam. Dù mức thuế đối ứng của Mỹ đã có hiệu lực nhưng những phân tích từ ông Phạm Vũ Thăng Long- chuyên gia kinh tế trưởng công ty CP chứng khoán TP Hồ Chí Minh (HSC) cho thấy, doanh nghiệp vẫn giữ được lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ cạnh tranh chính. “Hiện Việt Nam nằm nhóm 5 nước xuất khẩu lớn nhất vào Mỹ với 25 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Điều đó có nghĩa là rất khó để Mỹ có thể thay đổi nhà cung ứng”- ông Long nhấn mạnh.
Nhìn bức tranh tổng thể hơn, mức thuế trung bình của Mỹ áp lên hàng Việt gần 18%, thấp hơn so với Indonesia là 22,2%, Trung Quốc 38,2%, Ấn Độ khoảng 27%. Với một số ngành hàng cụ thể, dẫn số liệu từ Cổng thông tin của Ủy ban Thương mại quốc tế Mỹ (USITC), hàng điện tử chịu mức thuế là 12,4%, thấp hơn mức 36% hàng Trung Quốc và 33,54% với Ấn Độ. Đồ gỗ bị áp thuế ở mức 21,8%, thấp hơn Trung Quốc ở mức 48,6%; dệt may bị áp thuế 40,2% thấp hơn Trung Quốc là 53,4% và Ấn Độ là 56%.
Chính sách thuế đối ứng của Mỹ đang khiến một số thị trường phải điều chỉnh chính sách thương mại của mình, tạo cơ hội gia tăng sự hiện diện của hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Điển hình nhất là thị trường châu Âu (EU) rộng lớn. Để tránh tập trung thương mại, theo ông Trần Ngọc Quân - Tham tán thương mại tại EU và Bỉ, EU cũng thực hiện đa dạng hoá thị trường, đẩy mạnh thực thi các FTA, trong đó có EVFTA đã ký kết với Việt Nam. Đặc biệt, từ đầu tháng 8, trên 90% hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam vào EU hưởng thuế suất 0% tạo thuận lợi cho doanh nghiệp mở rộng thị trường. Ngoài ra, từ những khó khăn hiện tại, EU đang đơn giản hoá nhiều thủ tục trong các luồng thương mại. Cụ thể, với cơ chế CBAM, EU đã giảm mạnh đối tượng doanh nghiệp nhập khẩu chịu tác động; thực hiện Luật chống phá rừng (EUDR), qua phân loại Việt Nam hiện đang nằm trong nhóm có nguy cơ thấp nhất hay EU đang giãn và hoãn tiến độ thực thi một số quy định trong Thoả thuận xanh.
Bên cạnh đó, với chiến lược phù hợp, cách thức thực hiện bài bản, doanh nghiệp Việt Nam đã bước đầu mở rộng xuất khẩu tại các nền kinh tế có FTA với Việt Nam, các thị trường mới nổi. Cụ thể, tại khu vực châu Mỹ, các thị trường Argentina tăng 188,9%, Colombia tăng 48%; khu vực châu Á có Ấn Độ tăng gần 50%; khu vực châu Âu có các thị trường Na Uy tăng 48%, Slovakia tăng 32%, Áo tăng 21%. Cá biệt, khu vực châu Phi, thị trường Senegal tăng ấn tượng 249%, Angola 140%, Ghana 47%.
Mặc dù đã tăng trưởng xuất khẩu 8 tháng của năm 2025 rất ấn tượng và triển vọng tăng trưởng trong ngắn hạn là tích cực, song chuyên gia kinh tế trưởng HSC Phạm Vũ Thăng Long dự báo, hoạt động xuất khẩu trong năm tới và những giai đoạn tiếp theo tiềm ẩn một số rủi ro nhất định. Đó là tăng trưởng toàn cầu dự kiến chững lại do thương mại giảm tốc, trong đó, có các đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam là Mỹ và Trung Quốc có thể tiếp tục làm hạn chế nhu cầu bên ngoài với hàng hoá từ Việt Nam. Bên cạnh đó, bất định chính sách gia tăng tác động đến niềm tin của nhà đầu tư, người tiêu dùng. Diễn biến này có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng với nền kinh tế mở như Việt Nam. Nhìn vào nội tại, ông Phạm Vũ Thăng Long cho biết thêm, đóng góp vào xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước đang giảm so với năm ngoái, từ 30% còn 25%. Cấu trúc xuất khẩu vì thế không thay đổi trong nhiều năm nay, khu vực doanh nghiệp FDI đóng góp chủ lực với gần 2/3 giá trị xuất khẩu.
Kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn quan trọng, hướng đến mục tiêu tăng trưởng 2 con số, trong đó xuất khẩu- một trụ cột của “cỗ xe tam mã” cần đảm bảo tăng cao và bền vững. Để đạt được mục tiêu này, ông Phạm Vũ Thăng Long cho rằng, đã đến lúc cần tái cấu trúc cơ cấu xuất khẩu, gia tăng giá trị xuất khẩu với sự tham gia tích cực của doanh nghiệp nội địa trên cơ sở khai thác hiệu quả 17 FTA mà Việt Nam đã ký kết, đồng thời đàm phán ký kết FTA với đối tác thương mại quan trọng, trong đó có Mỹ để giảm thiểu rủi ro thuế quan. Cùng với đó, thực hiện tốt “Bộ tứ trụ cột”, nhất là Nghị quyết 68 và 57 đầu tư ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ để chuyển đổi mô hình sản xuất từ thâm dụng lao động sang sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao theo xu hướng chung của kinh tế toàn cầu. Hiện nay, phần nhiều lĩnh vực xuất khẩu chủ lực như như dệt may, giày da, điện tử… là ngành thâm dụng lao động. Chính phủ và các bộ, ngành cần hỗ trợ mạnh mẽ doanh nghiệp tìm kiếm và chủ động nguyên liệu đầu vào sản xuất trong nước, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá bền vững hơn.
Không chỉ tăng cường khai mở thị trường, các chuyên gia nhấn mạnh yêu cầu cấp bách nâng cao năng lực cạnh tranh, khả năng chống chịu của doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp cần đầu tư phát triển đa kênh, tham gia hệ sinh thái thương mại số, đầu tư đổi mới sáng tạo và công nghệ xanh, phát triển công nghiệp chế biến sâu để gia tăng giá trị. Đặc biệt ý thức chấp hành quy định của các thị trường xuất khẩu liên quan đến truy xuất nguồn gốc, an toàn vệ sinh thực phẩm, quy định lao động... ở các nhóm ngành hàng xuất khẩu thế mạnh như nông lâm thuỷ hải sản, thực phẩm chế biến, điện tử… Chỉ khi doanh nghiệp trong nước có nội lực mới có thể tiến sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, không bị lệ thuộc vào một vài thị trường truyền thống.