Khi kinh doanh ra nước ngoài doanh nghiệp rất cần “điểm tựa”, cần có chiến lược hoặc nghị quyết về lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài để doanh nghiệp tự tin.
Phát biểu tại cuộc gặp của “Thường trực Chính phủ gặp mặt đại diện Doanh nghiệp nhân ngày Doanh nhân Việt Nam”, ông Lê Mạnh Hùng, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) chia sẻ, doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), tập đoàn kinh tế nhà nước bên cạnh thực hiện sứ mệnh của doanh nghiệp, thực hiện theo cơ chế thị trường cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác thì còn góp phần thực hiện 3 nhiệm vụ lớn của kinh tế Nhà nước là: Khắc phục khuyết tật của kinh tế thị trường; bảo đảm công bằng xã hội và bảo đảm kinh tế vĩ mô.
Thực tế, ông Hùng cho biết, DNNN, các tập đoàn kinh tế Nhà nước có mặt trong các lĩnh vực trọng yếu, quốc phòng an ninh, năng lượng, dầu khí, hàng không, cảng biển… và nhiều địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, lợi nhuận thấp.
Hiện nay, doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ nguồn lực lớn, tài sản, nhân lực, công nghệ. Thời gian qua, vượt lên khó khăn, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, DNNN đóng góp lớn cho nền kinh tế, góp 28% ngân sách nhà nước, giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 1 triệu lao động trực tiếp, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện an sinh xã hội.
Petrovietnam là tập đoàn kinh tế lớn nhất trong các Tập đoàn kinh tế do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, các hoạt động của Petrovietnam có ảnh hưởng trọng yếu đối với toàn bộ chuỗi giá trị năng lượng tại Việt Nam. Doanh nghiệp hoạt động rất hiệu quả và có đóng góp lớn nhất cho phát triển kinh tế xã hội.
Theo tổng hợp, vốn chủ sở hữu của Petrovietnam đến 31/12/2023 đạt trên 531,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 24,8% tổng vốn chủ sở hữu của toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước (1,80 triệu tỷ đồng), chiếm tỷ trọng 32,8% tổng vốn chủ sở hữu của các Tập đoàn/Tổng công ty nhà nước (1,62 triệu tỷ đồng).
Tổng doanh thu toàn Petrovietnam giai đoạn 2021- 2023 đạt trên 834 nghìn tỷ đồng/năm, tăng trưởng đạt 20,2%/năm, so với năm 2020 doanh thu năm 2023 toàn Petrovietnam tăng 66,6% (942,8/566,0 nghìn tỷ đồng), cao hơn 24,2 điểm % so với mức tăng của các doanh nghiệp nhà nước (là 42,4%, 2,30 triệu tỷ đồng/1,62 triệu tỷ đồng).
Lợi nhuận trước thuế hợp nhất Petrovietnam giai đoạn 2021-2023 đạt trên 61,4 nghìn tỷ đồng/năm, tăng trưởng đạt 60,5%/năm, cao hơn 55,4 điểm % so với mức tăng của các doanh nghiệp nhà nước (5,1%); so với năm 2021 lợi nhuận hợp nhất của Petrovietnam tăng 9,1%.
Nộp ngân sách nhà nước toàn Petrovietnam giai đoạn 2021-2023 đạt 145 nghìn tỷ đồng/năm, tăng trưởng đạt 25,2% năm, chiếm tỷ trọng 8,4%/năm tổng thu ngân sách cả nước (năm 2021 chiếm 7,1%; 2022 là 9,6% và 2023 là 8,7%).
Tổng số lao động đến 30/6/2024 là gần 54 nghìn người, trong đó trình độ trên đại học là hơn 3.868 người; trình độ trên đại học là hơn 25.664 người.
Cũng là doanh nghiệp thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước, ông Tào Đức Thắng, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) cho biết, Vietel từ khi khai trương mạng di động năm 2004, chỉ 2 năm sau, tức năm 2006, chúng tôi đã đầu tư ra nước ngoài. Mặc dù là lĩnh vực mới, chưa có nhiều kinh nghiệm nhưng chúng tôi cũng mạnh dạn đầu tư tại 2 nước là Lào và Campuchia. Từ đó rút kinh nghiệm để đầu tư ra các nước khác tại châu Phi và Mỹ La tinh.
Đến nay sau chặng đường 18 năm đầu tư, Viettel đã trở thành nhà đầu tư viễn thông lớn trên thế giới, giá trị thương hiệu theo định giá gần 9 tỷ USD, đứng thứ 17 thế giới và giá trị thương hiệu viễn thông số 1 tại Đông Nam Á.
Việc đầu tư ra nước ngoài đã góp phần định vị Viettel trên thương trường quốc tế. Hiện nay, Viettel đã đầu tư tại 13 quốc gia với 24 dự án thuộc các lĩnh vực kinh doanh viễn thông, nghiên cứu phát triển, xây lắp, bưu chính với tổng số vốn là 1,5 tỷ USD, trong đó chiếm tỉ trọng lớn là các dự án viễn thông của Tập đoàn.
Viettel luôn hướng tới mục tiêu là doanh nghiệp tiên phong dẫn dắt thị trường, trong lĩnh vực viễn thông, Viettel có 7/10 thị trường đã vươn lên số 1, có những thị trường trong vòng 6 tháng đã vươn lên số 1 như thị trường Bungaria, có những thị trường khác, chúng tôi kiên trì sau 12 năm như Mozambique.
Bên cạnh viễn thông, Viettel cũng mở rộng, đi vào chiều sâu như là đưa nền tảng số, những lĩnh vực mới để kinh doanh như thanh toán số tại châu Phi, Mozambique, những đóng góp ở đây rất lớn trong khi đầu tư rất nhỏ.
Bên cạnh hiệu quả về kinh tế, Viettel cũng xác định đầu tư ra nước ngoài gắn chặt với nhiệm vụ chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng, từ đó giúp thúc đẩy ngoại giao văn hoá, đối ngoại quốc phòng, lan toả hình ảnh đất nước, con người, những thành tựu của Việt Nam ra quốc tế. Đây cũng là cơ hội tốt để tạo ra các cán bộ chuyên môn, có kinh nghiệm, bản lĩnh, nhiệt huyết, tự tin không chỉ cho Viettel mà cho đất nước nói chung.
Về những thuận lợi, Viettel đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ cao nên theo ông Thắng là tận dụng được lợi thế của người đi sau. Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân lực của chúng ta dồi dào, chi phí nhân công hợp lý, có khả năng thích ứng, linh hoạt, kiên trì của người Việt Nam rất lớn, đã biến khó khăn thành cơ hội.
Lãnh đạo Viettel nhấn mạnh đã luôn nhận được sự ủng hộ, tháo gỡ khó khăn của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành liên quan.
Đáng lưu ý, về thách thức, lãnh đạo Viettel cho biết, kinh doanh ra nước ngoài cũng có nhiều khó khăn, đặc biệt là ở những nước lớn, phát triển thực sự không phải dễ cho lĩnh vực công nghệ cao, những vùng chúng ta tìm đến là những vùng khó khăn như ở châu Phi, Nam Mỹ, hay ở Đông Nam Á. Khi xin phép đầu tư, Viettel luôn khảo sát rất kỹ thị trường trước khi ra quyết định, tuy nhiên chúng ta cũng không thể lường trước được những xung đột, diễn biến chính trị ở các quốc gia.
Khó khăn nữa là khác biệt về văn hoá, mỗi quốc gia có nền văn hoá riêng, thậm chí là trong một quốc gia cũng có văn hoá khác nhau. Khó khăn thứ ba là khác biệt về ngôn ngữ.
Về bài học kinh nghiệm, ông Tào Đức Thắng nhấn mạnh, đầu tiên doanh nghiệp phải có khát vọng, tự tin, tự hào đủ lớn, kinh doanh ra nước ngoài, các doanh nghiệp phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, nhưng phải tự tin, kiên trì, khát vọng đủ lớn để thành công.
Thứ hai, phải khảo sát, đánh giá kỹ lưỡng tình hình chính trị, kinh tế, luật pháp tại các nước trước khi đầu tư.
Thứ ba, phải tạo dựng được mối quan hệ với Chính phủ, gắn kết với chính quyền địa phương, duy trì mối quan hệ. Sau nữa, kinh doanh phải gắn liền với trách nhiệm xã hội tại các nước chúng ta đầu tư.
Về những kiến nghị, doanh nghiệp đề xuất, khi kinh doanh ra nước ngoài doanh nghiệp rất cần “điểm tựa”, nhất là tại những nước Việt Nam không có sứ quán, bảo hộ đầu tư. Cần có chiến lược hoặc nghị quyết về lĩnh vực này để doanh nghiệp tự tin đi ra nước ngoài.
Bên cạnh đó, cần nâng cao vai trò ngoại giao kinh tế hỗ trợ doanh nghiệp Việt đầu tư ra nước ngoài qua những chuyến công tác của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, hay những chuyến thăm của lãnh đạo, doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam.
Thứ tư, cần giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp đầu đàn, với những thế mạnh tại những vùng, khu vực cụ thể, cùng với các doanh nghiệp khác của Việt Nam tạo hệ sinh thái đầy đủ tại các nước đầu tư.