Thương mại điện tử xuyên biên giới không chỉ là “bàn đạp” tăng trưởng xuất khẩu, mà còn là hành lang để tái định vị hàng Việt trên thị trường toàn cầu theo hướng chủ động, bản sắc và bền vững.
Đây là chia sẻ của PGS, TS Trần Ngọc Mai, Khoa Kinh doanh Quốc tế, Học viện Ngân hàng với Diễn đàn Doanh nghiệp.
Trong bối cảnh kinh tế số, TMĐT được Chính phủ xác định là lĩnh vực tiên phong hiện đại hóa phân phối và thúc đẩy xuất khẩu bền vững. Đặc biệt, TMĐT xuyên biên giới nổi lên như một hình thức xuất khẩu mới, tạo ra cuộc cách mạng trong cách hàng Việt tiếp cận thị trường toàn cầu.
Theo báo cáo của Cognitive Market Research, thị trường TMĐT xuyên biên giới toàn cầu có quy mô 791,5 tỷ USD vào năm 2024 và dự báo sẽ tăng trưởng với tốc độ kép hàng năm (CAGR) 30,5% từ năm 2024 đến năm 2031. Với lợi thế là nền kinh tế xuất khẩu đang ngày càng hội nhập sâu rộng, cùng thế mạnh về các ngành hàng như dệt may, da giày, gạo, nông sản… Việt Nam đang sở hữu dư địa rất lớn để bứt phá trong lĩnh vực này.
Điểm đáng chú ý là TMĐT xuyên biên giới không chỉ dành cho doanh nghiệp lớn mà còn mở cơ hội cho doanh nghiệp vừa, nhỏ, làng nghề, cá nhân tiếp cận trực tiếp người tiêu dùng toàn cầu. Điều này tạo ra một “cuộc dân chủ hóa” thương mại quốc tế, nơi bất kỳ ai cũng có thể xây dựng thương hiệu và bán hàng toàn cầu nếu có sản phẩm chất lượng và chiến lược đúng.
Khác với xuất khẩu truyền thống phụ thuộc nhà nhập khẩu và phân phối trung gian, TMĐT xuyên biên giới cho phép doanh nghiệp bán trực tiếp cho người tiêu dùng toàn cầu (D2C). Điều này giúp doanh nghiệp chủ động kiểm soát kênh phân phối, tương tác trực tiếp với khách hàng, nâng cao biên lợi nhuận và linh hoạt điều chỉnh sản phẩm. Đây là sự dịch chuyển quyền lực trong chuỗi giá trị toàn cầu, giúp hàng Việt vươn xa chủ động, bền vững hơn.
TMĐT cũng là động lực thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện: từ số hóa sản phẩm (quản lý tồn kho, QR code, truy xuất nguồn gốc) đến vận hành (CRM, fulfillment, logistics API) và tiếp thị (quảng cáo số, storytelling đa ngôn ngữ). Doanh nghiệp không chỉ học cách bán hàng mà còn nâng cấp hệ thống quản trị, ra quyết định dựa trên dữ liệu.
Đặc biệt, TMĐT xuyên biên giới mở ra cơ hội cho các sản phẩm đặc trưng vùng miền, sản phẩm thủ công, sản phẩm xanh, hữu cơ. Các sản phẩm mang câu chuyện và thương hiệu Việt Nam từ trà, ống hút, nến thơm, đến khăn lụa đang là một hướng đi hiệu quả trong các thị trường ngách giàu tiềm năng như Bắc Âu, Nhật Bản, Úc… TMĐT giúp mở khóa những thị trường này bằng cách kết nối trực tiếp đến khách hàng cuối với chi phí thấp, không cần hệ thống phân phối vật lý.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, các doanh nghiệp Việt, đặc biệt là nhóm vừa và nhỏ cũng đang phải đối mặt với một số rào cản khi tham gia TMĐT xuyên biên giới. Cụ thể là hạn chế về năng lực vận hành TMĐT quốc tế; thiếu hiểu biết về thị trường, pháp lý và văn hóa tiêu dùng bản địa; khó khăn trong logistics và thanh toán xuyên biên giới; và chưa biết cách xây dựng niềm tin với khách hàng toàn cầu thông qua dịch vụ, đánh giá và trải nghiệm mua sắm trực tuyến.
Để TMĐT xuyên biên giới không chỉ là cơ hội mang tính chất thời điểm mà thực sự trở thành chiến lược phát triển dài hạn, cần đồng thời cải thiện ở ba trụ cột cốt lõi.
Một là, Việt Nam cần xây dựng chiến lược quốc gia về xuất khẩu số, với chính sách đồng bộ về hải quan điện tử, xuất khẩu nhỏ lẻ, bảo hộ thương hiệu số, chứng nhận trực tuyến. Chính phủ cần đầu tư dài hạn vào các chương trình xúc tiến thương mại số, hỗ trợ doanh nghiệp lên sàn quốc tế, đào tạo theo thị trường đích, và xây dựng câu chuyện thương hiệu quốc gia giống như Trung Quốc, Hàn Quốc và Thái Lan.
Hai là, Nhà nước và khu vực tư nhân cần chung tay đầu tư vào các trung tâm logistics TMĐT tại các cửa ngõ xuất khẩu (Hải Phòng, Đà Nẵng, TPHCM), tích hợp công nghệ truy xuất nguồn gốc, xử lý đơn hàng TMĐT nhanh gọn, chi phí hợp lý. Hợp tác công - tư để phát triển mạng lưới vận chuyển quốc tế kết nối sàn TMĐT và người bán nội địa kết hợp xây dựng hạ tầng thanh toán và đối soát xuyên biên giới an toàn, minh bạch và dễ sử dụng cho cả doanh nghiệp và cá nhân.
Ba là, doanh nghiệp cần nâng cấp năng lực cốt lõi của mình, chuyển tư duy từ “đưa sản phẩm lên sàn” sang “xây dựng thương hiệu số toàn cầu”. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp cần đầu tư xây dựng hình ảnh, nội dung đa ngôn ngữ, phản hồi nhanh, đánh giá tích cực và chất lượng sản phẩm nhất quán.
Để làm được điều này, doanh nghiệp cần chuẩn hóa sản phẩm theo hướng số hóa như có mã QR, có chứng chỉ quốc tế, có câu chuyện nguồn gốc và hình ảnh chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần củng cố năng lực thu thập và phân tích dữ liệu để có thể khai thác dữ liệu người tiêu dùng quốc tế qua đó tùy biến sản phẩm, cá nhân hóa chiến dịch và đưa ra các quyết định hiệu quả, chính xác hơn.