2025 tiếp tục là một năm Việt Nam đạt được hầu hết những mục tiêu kinh tế vĩ mô đặt ra từ đầu năm - từ tăng trưởng kinh tế, đến kiểm soát lạm phát, cùng hàng loạt các chỉ tiêu khác.
Nhìn lại bức tranh kinh tế cả năm qua, để đạt được thành tựu đó Việt Nam đã phải vượt qua vô vàn thách thức với những cơn gió ngược đến từ mọi khía cạnh như thuế quan, thay đổi khí hậu, vấn đề nợ công toàn cầu… Tua ngược lại thời điểm tháng Tư năm nay, khi Tổng thống Donald Trump công bố con số thuế quan đã gây sốc cả thế giới, không một ai có thể nghĩ tới về một triển vọng kinh tế tươi sáng cho cả năm 2025. Tuy nhiên, với quyết tâm cao từ toàn bộ cơ quan ban ngành, cùng những quyết sách mang tính quyết liệt, Việt Nam đang hướng tới một năm tăng trưởng kỷ lục. Tất cả những biến động đó tạo tiền đề lạc quan cho năm sau, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều trăn trở cho năm 2026 – liệu Việt Nam có thể tìm được điểm cân bằng mới giữa những biến động từ nhiều phía?

Bức tranh kinh tế vĩ mô có thể chia làm hai giai đoạn chính, với câu chuyện thuế quan là bước ngoặt chính. Trước đó, Việt Nam khởi đầu 2025 trong sự lạc quan với rất nhiều kỳ vọng sẽ nối tiếp thành công của năm 2024. Tuy nhiên, thuế quan đã trở thành chủ đề được bàn tán nhiều nhất trong quý I khi Việt Nam, quốc gia có thặng dư thương mại song phương lớn thứ ba với Mỹ, được xem là nước có rủi ro thuế quan cao nhất trong ASEAN. Cơn bão thuế quan đã gây chấn động thị trường, khi Việt Nam phải đối mặt với mức thuế 46% mà Mỹ công bố vào tháng Tư. Sau nhiều vòng đàm phán, Việt Nam hiện đang ở nhóm các nước đang phát triển khác trong ASEAN với mức thuế 19-20%. Mặc dù vậy, ngay cả khi kết quả của các vòng đàm phán còn chưa ngã ngũ, một thực tế là tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vẫn đã và đang cho thấy những con số ấn tượng, trong bối cảnh các nhà xuất khẩu đẩy mạnh vận chuyển hàng hoá trước khi thuế quan có hiệu lực, và tác động của nó vẫn chưa hoàn toàn suy giảm ngay cả tới những tháng gần đây.
Tại thời điểm công bố mức thuế quan đặc biệt cao mà chính quyền Tổng thống Trump áp dụng cho Việt Nam, đã có rất nhiều hoài nghi về việc Việt Nam liệu có đạt được những mục tiêu kinh tế đầy tham vọng mà Chính Phủ đặt ra từ đầu năm. Tuy nhiên, các dữ liệu kinh tế vĩ mô đã cho thấy đà tăng trưởng GDP đầy ấn tượng trong quý hai và quý ba năm nay, với quý sau cao hơn quý trước. Bất chấp môi trường thương mại có nhiều thay đổi khó lường, chỉ số sản xuất công nghiệp quý ba (IIP) vẫn tăng 10% so với cùng kỳ năm trước. Không những thế, tăng trưởng còn diễn ra ở diện rộng. Ngành dịch vụ ghi nhận hiệu quả hoạt động mạnh mẽ, nhờ sự tăng trưởng tốt trong các dịch vụ thương mại cũng như các ngành liên quan đến du lịch. Doanh số bán lẻ cũng cho thấy những cải thiện đáng kể với mức tăng 12% so với cùng kỳ năm ngoái trong quý ba. Trong khi đó, các ngành liên quan đến du lịch, bao gồm vận tải và lưu trú, cũng đang chứng kiến sự bùng nổ liên tục khi Việt Nam đang chứng kiến lượng khách du lịch quay trở lại tương đương 120% so với mức năm 2019, dẫn đầu trong nhóm các quốc gia ASEAN.
Quay lại với bức tranh thương mại, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tiếp tục bùng nổ với cả xuất khẩu và nhập khẩu đều đạt mức tăng trưởng gần 20% so với cùng kỳ năm trước. Thêm vào đó, thặng dư thương mại mà Việt Nam duy trì được, đã tăng hơn gấp đôi lên 3 tỷ USD trong quý ba, so với nửa đầu năm 2025, đưa cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu lên 20,53 tỷ USD tính chung mười một tháng đầu năm. Tháng 11 tiếp tục chứng kiến tăng trưởng thương mại mạnh mẽ, mặc dù với tốc độ chậm hơn, phản ánh tác động giảm dần của việc đẩy nhanh hơn hoạt động thương mại trước hiệu lực của thuế quan. Trong tháng 11, tăng trưởng xuất khẩu và nhập khẩu đã giảm xuống còn 15,1% và 16,0% so với cùng kỳ năm trước, từ mức đỉnh.
Có thể nói, sự giảm tốc trong đà tăng trưởng thương mại diễn ra trên diện rộng trong hai tháng gần nhất, tuy nhiên điểm sáng là xuất khẩu điện tử vẫn duy trì được đà tăng trưởng mạnh mẽ. Kể từ đầu năm 2025, các sản phẩm điện tử đã vượt qua ngành sản xuất công nghiệp nhẹ để trở thành mặt hàng xuất khẩu hàng đầu sang thị trường Mỹ. Kể từ khi căng thẳng thương mại Mỹ - Trung leo thang trở lại, Việt Nam đã nâng cao tầm quan trọng của mình trong hoạt động lắp ráp các thành phẩm các sản phẩm điện tử. Điều này cũng phản ánh sự tiến bộ của Việt Nam trong việc từng bước vươn lên chuỗi giá trị công nghệ. Mặc dù về tổng thể, Việt Nam vẫn còn tập trung ở phân khúc thấp hơn của chuỗi cung ứng công nghệ, nhưng nhu cầu AI tăng cao vẫn có tác động lan tỏa tích cực, giúp cho thị phần xuất khẩu các sản phẩm liên quan đến điện thoại và điện tử tiêu dùng của Việt Nam đã có sự tăng trưởng đáng kể. Bên cạnh điện tử tiêu dùng, Việt Nam cũng đang ngày càng trở nên quan trọng trong chuỗi sản xuất chip xử lý – một phân khúc có giá trị gia tăng cao hơn so với chỉ lắp ráp điện tử đơn thuần.
Theo một báo cáo gần đây của Bloomberg, tính đến tháng 8 năm nay, Việt Nam đã xuất khẩu 75% lượng máy chơi game sang Mỹ. Lượng xuất khẩu máy chơi game của Việt Nam sang Mỹ, vốn chỉ đạt trung bình dưới 30 triệu USD/tháng vào năm 2024, dưới những thay đổi về chính sách thuế quan giữa Mỹ và Trung Quốc, đã tăng vọt lên hơn 400 triệu USD/tháng sau tháng 5. Cũng theo nguồn tin của Bloomberg, một loạt các doanh nghiệp xuất khẩu của Trung Quốc tại Việt Nam, như Pegatron, Hosiden, Goertek… đều đang trong quá trình gia tăng sản xuất, mở rộng lực lượng lao động cũng như cải tiến dây chuyền lắp ráp và mở rộng nhà máy tại Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, bức tranh vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam (FDI) cũng rất tươi sáng, vốn được hưởng lợi rất nhiều từ sự bùng nổ xuất khẩu do FDI thúc đẩy. Mặc dù số vốn đăng ký mới giảm khoảng 8% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng vốn đăng ký điều chỉnh và vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần tăng lần lượt 17,0% và 50,7%, đưa tổng vốn FDI vào Việt Nam đạt 33,69 tỷ USD, là mức cao nhất trong vòng năm năm trở lại đây. Tương tự, vốn FDI thực hiện tại Việt Nam mười một tháng năm 2025 cũng đạt mức cao nhất của mười một tháng trong 5 năm qua với mức ước đạt 23,6 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước. Điều thú vị là, cơ cấu FDI cho thấy một bức tranh về sự thay đổi cơ cấu nhà đầu tư, khi FDI từ Trung Quốc và Mỹ tăng đáng kể góp phần bù đắp cho sự sụt giảm từ các nhóm quốc gia khác.
Tuy nhiên, bức tranh toàn cảnh không chỉ có riêng màu hồng. Thị trường tài chính-tiền tệ năm 2025 đã trải qua mười hai tháng đầy biến động, với rất nhiều cơn gió ngược. Mặt bằng lãi suất liên ngân hàng đã được duy trì ổn định trong phần lớn thời gian của nửa đầu năm nay nhờ vào Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) điều hành chính sách tiền tệ theo hướng linh hoạt, ổn định nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và kích thích kinh tế trong bối cảnh Việt Nam chịu nhiều rủi ro về thuế quan.
Tuy nhiên, tiến gần tới những tháng cuối năm, mặt bằng lãi suất VNĐ đã chứng kiến áp lực tăng cao và nhanh, tiệm cận mức cao nhất trong vòng ba năm trở lại đây. Trong bối cảnh nhu cầu tín dụng có xu hướng tăng mạnh theo chu kỳ mùa vụ, điều đó cũng được phản ánh rõ qua chênh lệch giữa tăng trưởng dư nợ tín dụng và huy động vốn lần lượt ở mức tăng 16,15% và 12%, so với đầu năm tính đến ngày 21/11.
Đáng chú ý, một mặt NHNN vẫn tích cực hỗ trợ thanh khoản thị trường, thể hiện qua lượng cho vay cầm cố giấy tờ có giá (OMO) chạm mức kỷ lục gần 370 nghìn tỷ đồng, song song với việc bắt đầu triển khai nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ với các ngân hàng thương mại. Một mặt khác, NHNN đã nâng lãi suất OMO lên mức 4,5%/năm từ mức 4%/năm vốn được duy trì xuyên suốt từ tháng 9 2024.
Bên cạnh đó, lạm phát cũng là một vấn đề đáng chú ý. Đà tăng trưởng lạm phát chung đã tăng tốc lên 0,5% so với tháng trước trong tháng 11, tương đương với mức tăng 3,58% so với cùng kỳ năm trước, với nguyên nhân chính là do giá thực phẩm tăng cao sau những đợt bão lũ gần đây. Mặc dù vậy, mặt bằng lạm phát vẫn thấp hơn nhiều so với mức chỉ tiêu lạm phát 5% mà Quốc Hội đã thông qua.
Tựu chung lại, đứng trước những yếu tố co-kéo, NHNN được dự báo sẽ tiếp tục giữ ổn định mức lãi suất điều hành. Trong bối cảnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm sau đề ra ở mức cao, trong khi lạm phát được duy trì ở dưới mục tiêu, điều này cho phép mặt bằng lãi suất bình quân liên ngân hàng VNĐ quay về xu hướng ổn định hơn trong thời gian tới. Lãi suất điều hành do đó nhiều khả năng không cần thay đổi nếu các chỉ số kinh tế chính được giữ vững, trong khi đó, hoạt động OMO cũng như các công cụ chính sách mới như hoán đổi tiền tệ tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong dẫn dặt thị trường tiền tệ, giúp kiểm soát thanh khoản và định hướng kỳ vọng lãi suất. Đây được đánh giá là điểm tích cực, phản ánh bước chuyển sang điều hành thị trường mở hiệu quả, linh hoạt hơn.
Về tỷ giá, cặp tỷ giá USD-VND cũng trải qua một năm 2025 đầy biến động. Trong một năm mà chỉ số USD giảm hơn 9%, và trong bối cảnh Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ (Fed) quay trở lại chu kỳ cắt giảm lãi suất điều hành, VNĐ đã mất giá khoảng 3,5% so với USD tính chung từ đầu năm. Điều này đặt ra rất nhiều thách thức cho cả nhà đầu tư, những thành viên tham gia thị trường cũng như cơ quan điều hành. Một loạt các nguyên nhân chính có thể giải thích cho đà tăng của cặp tỷ giá USD-VND, chủ yếu đến từ nỗi lo thuế quan, khác biệt về chính sách tiền tệ giữa Mỹ và Việt Nam, khối ngoại tiếp tục bán ròng cổ phiếu Việt Nam, nhu cầu mua ngoại tệ tăng cao để chi trả cổ tức và từ doanh nghiệp nhập khẩu, cũng như biến động từ thị trường vàng thế giới nói chung và trong nước nói riêng. Điều đó đã khiến cặp tỷ giá USD-VND tăng trong phần lớn năm 2025, nhưng đã ổn định hơn kể từ tháng 9, nhờ chính sách điều hành ngoại hối chủ động, linh hoạt của NHNN. Cụ thể hơn, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá trung tâm theo xu hướng giảm, giúp góp phần định hướng xu hướng và tâm lý thị trường, đồng thời kết hợp bán hợp đồng kỳ hạn cho các ngân hàng thương mại nhằm đảm bảo thanh khoản thị trường, đáp ứng nhu cầu ngoại hối hợp pháp của các tổ chức và doanh nghiệp. Căn cứ vào kết quả đó, có lí do để kỳ vọng tỷ giá tiếp tục duy trì xu hướng ổn định cho phần còn lại của năm 2025. Nhìn sang 2026, nhu cầu ngoại hối mang tính cơ cấu vẫn sẽ hiện diện, tuy nhiên mức độ tăng của tỷ giá USD-VND dự kiến sẽ nhỏ hơn so với hai năm gần đây, trong bối cảnh khác biệt về chính sách điều hành dần thu hẹp khi Fed gần như loại bỏ khả năng tăng lãi suất điều hành vào năm sau, cộng thêm giai đoạn bất ổn về thuế quan đã qua.
Mặc dù các diễn biến của năm 2026 là rất khó dự đoán tại thời điểm này, nhưng các chỉ số như PMI cũng góp phần hé lộ một số triển vọng đáng khích lệ. Chỉ số PMI tổng thể vẫn duy trì ở mức mở rộng 53,8 trong tháng 11. Đặc biệt, đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn trong tháng thứ hai liên tiếp. Trong thời gian qua, Việt Nam đã tập trung đẩy mạnh đầu tư công, đặc biệt vào cơ sở hạ tầng trọng điểm. Chi tiêu công cho cơ sở hạ tầng chiếm khoảng 6-7% GDP, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Đây đã và đang là động lực quan trọng hỗ trợ đà tăng trưởng kinh tế. Khi những bất ổn bên ngoài gia tăng với rủi ro thương mại toàn cầu luôn hiện diện, việc tiếp tục tập trung đẩy mạnh đầu tư công sẽ là một trụ cột quan trọng đẩy mạnh tăng trưởng. Điều này đặc biệt ý nghĩa trong bối cảnh dư địa cho chính sách tiền tệ hạn chế, ở phía ngược lại, dư địa về chính sách tài khoá còn tương đối rộng mở khi tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam là thấp nhất trong số các nước ASEAN.
Về triển vọng thương mại, đa dạng hóa thương mại đã trở thành một chiến lược quan trọng trong bối cảnh bất ổn về thuế quan từ Mỹ. Mặc dù Mỹ vẫn duy trì là điểm đến xuất khẩu hàng đầu, Việt Nam đang đẩy nhanh nỗ lực theo đuổi các cơ hội thương mại dài hạn. Năm 2024, thương mại của Việt Nam với Khối Liên Minh Châu Âu (EU) tăng 36% so với năm 2019, trở thành đối tác thương mại quan trọng nhất trong ASEAN. Ngoài ra, Việt Nam đã và đang ký một loạt các hiệp định thương mại, cũng như nâng cấp quan hệ với các quốc gia, cho thấy tiềm năng của việc đa dạng hoá thương mại là rất lớn.
Về thị trường tài chính, mặc dù Việt Nam đã có một năm tương đối thành công trong kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thị trường ngoại tệ và tỷ giá VND chủ yếu chịu tác động từ các diễn biến phức tạp, khó lường của thị trường quốc tế như lộ trình chính sách tiền tệ khó lường của Fed, chính sách thương mại, thuế quan của Chính quyền Mỹ và biến động của đồng USD quốc tế. Do đó, trong một số giai đoạn, rủi ro vẫn có thể đến từ biến số bên ngoài khiến cân đối cung cầu ngoại tệ trong nước chịu sức ép tạm thời. Tuy nhiên, chính sách điều hành tiền tệ chủ động, linh hoạt của NHNN tiếp tục sẽ tiếp tục tạo điều kiện cho thị trường vận động trong biên độ ổn định. Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, cần tiếp tục chủ động trong hoạt động phòng vệ rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất nhằm đảm bảo kết quả kinh doanh không bị ảnh hưởng. 2026 sẽ tiếp tục là một năm Việt Nam đứng trước nhiều thách thức, nhưng cũng không thiếu những cơ hội. Việc tìm được điểm cân bằng sẽ giúp đưa quốc gia bước vào một kỷ nguyên mới vững mạnh hơn.
(*) Vũ Bình Minh, CFA, Giám đốc Kinh doanh vốn và tiền tệ, Khối Thị trường vốn và Dịch vụ Chứng khoán, HSBC Việt Nam