Để giải toả áp lực lạm phát những tháng cuối năm cần mở rộng kênh dẫn vốn cho doanh nghiệp ngoài hệ thống ngân hàng.
LTS: Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 ít nhất 8% được kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam tạo đà cho tăng trưởng kinh tế hai chữ số từ năm 2026 trở đi. Dự kiến, quy mô GDP của Việt Nam sẽ vượt 500 tỷ USD vào năm 2025, với GDP bình quân đầu người trên 5.000 USD.
Qua 6 tháng đầu năm, CPI bình quân tăng 3,27% so với bình quân cùng kỳ năm trước, thấp hơn mục tiêu lạm phát 4,5-5% mà Quốc hội đã đề ra cho cả năm. Lạm phát đang trong tầm kiểm soát và chúng ta đều kỳ vọng năm nay lạm phát trong con số mục tiêu.
Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng cao trong 2 quý cuối năm, nền kinh tế dự báo có thể đối mặt với áp lực lạm phát, bao gồm áp lực đến từ yếu tố trong nước và bên ngoài. Cụ thể, ở trong nước, mảng dịch vụ du lịch đã tăng trưởng hơn, đầu tư công giải ngân tốt hơn… có thể tạo áp lực lên mặt bằng giá. Tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế có thể tăng mạnh hơn, có thể kích thích cầu tiêu dùng và đầu tư, tạo áp lực cầu kéo. Đến thời điểm này theo Ngân hàng Nhà nước vừa công bố, tăng trưởng tín dụng đã đạt khoảng 16%. Từ bên ngoài, lạm phát toàn cầu tuy đã giảm nhưng có thể vẫn chịu áp lực cao do ảnh hưởng của tình hình địa chính trị khiến giá hàng hóa có khả năng biến động mạnh, nhất là giá dầu hay chi phí logistic tăng cao. Xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng cũng có thể gia tăng chi phí sản xuất.
Trước áp lực trên, để duy trì lạm phát trong mức mục tiêu mà Quốc hội và Chính phủ đề ra là thách thức không nhỏ. Kinh nghiệm những năm trước cho thấy, lạm phát là yếu tố quan trọng rất cần chú ý bởi không kiềm chế lạm phát ảnh hưởng đến quyết định tiêu dùng của người dân, ảnh hưởng đến quyết định kế hoạch sản xuất kinh doanh, quyết định đầu tư của doanh nghiệp trong năm sau.
Để giải toả áp lực lạm phát trong những tháng tiếp theo cần thực hiện một số biện pháp trong ngắn và trung hạn. Quan trọng nhất, cần mở rộng những nguồn vốn huy động từ nền kinh tế phục vụ cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp góp phần giảm bớt áp lực cho hệ thống ngân hàng. Trong đó, đầu tư của khu vực tư nhân thông qua thị trường vốn, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán cần được phát huy mạnh mẽ và hiệu quả hơn nữa. Do đó, Chính phủ, các bộ ngành cần có giải pháp mạnh mẽ khơi thông nguồn lực vốn ngoài ngân hàng, nâng cao vai trò và sự chung tay của thị trường vốn để mở rộng kênh dẫn vốn trực tiếp vào các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước cần đảm bảo linh hoạt, mềm dẻo như đã thực hiện thời gian vừa qua. Những tháng cuối năm, thông thường nhu cầu tiêu dùng tăng cao, các bộ ngành, địa phương luôn theo dõi thị trường một cách sát sao, nhất là diễn biến giá của các mặt hàng thiết yếu để điều hành phù hợp cũng như chủ động nguồn cung hàng, đảm bảo cung ứng, lưu thông, phân phối thông suốt, hạn chế tăng giá. Cùng với đó, theo dõi sát diễn biến giá cả, lạm phát thế giới để có biện pháp ứng phó kịp thời. Như vậy, chúng ta sẽ đảm bảo không tăng nguồn lực quá lớn mà vẫn có tín dụng để đảm bảo ổn định tăng trưởng kinh tế.