Dịch vụ lưu trú và ăn uống lần đầu tiên đạt mức tăng trưởng cao hơn trước đại dịch nhờ nhu cầu trong nước phục hồi mạnh mẽ, đóng góp lớn cho tăng trưởng trong quý 3/2022
>>>Nghị quyết 128/NQ-CP: Bước ngoặt quan trọng tác động đến tăng trưởng kinh tế
Đây là thông tin quan trọng được Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam nhận định trong báo cáo “Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam” tháng 10.
Theo WB ghi nhận trong quý 3/2022, nền kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao 13,7% so cùng kỳ năm 2021. Nhờ hiệu ứng xuất phát điểm thấp nên cộng dồn 3 quý đầu năm 2022, chỉ số tăng trưởng của nền kinh tế đạt 8,9% so cùng kỳ năm trước. Ngành dịch vụ vốn bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong năm 2021 thì nay đạt tăng trưởng cao nhất - 18,9%, đóng góp 8,5 điểm phần trăm cho tốc độ tăng trưởng GDP.
Trong đó, lĩnh vực lưu trú và ăn uống lần đầu tiên cao hơn mức trước đại dịch kể từ quý 2/2022 nhờ nhu cầu trong nước phục hồi mạnh mẽ, còn lĩnh vực xây dựng tăng 12,9% so cùng kỳ năm trước - đóng góp 4,9 điểm phần trăm.
Các hoạt động kinh tế sôi động hơn trong quý 3 năm nay đã kéo theo tốc độ tăng trưởng của sản xuất công nghiệp và doanh số bán lẻ đạt mức cao, lần lượt ghi nhận ở mức 13% và 36,1% so cùng kỳ năm 2021. Trong sản xuất công nghiệp, dù các lĩnh vực chế tạo chế biến chủ chốt đều tăng trưởng nhưng sản xuất máy tính, hàng điện tử và sản phẩm quang học lần đầu tiên bị suy giảm kể từ tháng 2 năm nay do sức cầu bên ngoài yếu đi khiến kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng trên chững lại.
Liên quan đến tăng trưởng xuất nhập khẩu, báo cáo của WB nhấn mạnh: tăng trưởng xuất khẩu giảm từ 28,2% xuống còn 10,8% so cùng kỳ năm trước do nhu cầu tại Mỹ và EU giảm kết hợp với tác động của chính sách zero COVID tại Trung Quốc. Tăng trưởng xuất khẩu các mặt hàng dệt may và giày da giảm từ 80,4% xuống còn 57,3% so cùng kỳ năm trước trong khi tăng trưởng tổng kim ngạch nhập khẩu giảm từ 13,6% xuống 8,0% so cùng kỳ năm trước do giảm nhập khẩu điện thoại, máy tính, hàng điện tử và máy móc. Con số này phản ánh các mặt hàng xuất khẩu công nghệ cao còn phụ thuộc nhiều vào những đầu vào nhập khẩu.
Hơn nữa, dù xuất khẩu dịch vụ đã phục hồi nhưng cán cân thương mại dịch vụ vẫn thâm hụt, ghi nhận ở mức 3,2 tỷ USD trong quý 3, ở mức tương đối cao so với mức trước đại dịch.
Trong báo cáo, WB cũng đưa ra nhận định về tình hình lạm phát. Hiện tại giá năng lượng đã hạ nhiệt, nhưng lạm phát về chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng từ 2,9% trong tháng 8 lên mức 3,9% trong tháng 9 chủ yếu do tiền thuê nhà và chi phí giáo dục tăng cao. Lạm phát CPI cơ bản cũng tăng, từ 3,15 trong tháng 8 lên mức 3,8% trong tháng 9.
Tăng trưởng tín dụng tăng từ 16,2% trong tháng 8 lên 17,2% trong tháng 9 và so cùng kỳ năm 2021 sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nâng hạn mức tăng trưởng tín dụng cho một số ngân hàng thương mại. Do nhu cầu lớn về tín dụng, lãi suất liên ngân hàng qua đêm tăng từ 3,5% trong tháng 8 lên đến 5,48% vào giữa tháng 10, mức cao nhất kể từ năm 2013 tới nay.
Đồng tiền của Việt Nam tiếp tục mất giá so với đồng USD - vốn đang mạnh dần lên trong tháng 9, khi đồng USD tăng giá 1% so với tháng 8 và tăng 3.8% so cùng kỳ năm 2021. Để ổn định đồng nội tệ, Ngân hàng Nhà nước đã nâng 2 loại lãi suất chính sách chủ chốt và trần lãi suất tiền gửi ngắn hạn bằng nội tệ thêm 100 điểm cơ bản, ghi dấu đợt tăng lãi suất đầu tiên kể từ tháng 4/2020.
Cân đối ngân sách tháng 9 lần đầu tiên bội chi ở mức 0,5 tỷ USD trong năm 2022, nhưng vẫn ghi nhận mức bội thu 10,5 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm. Do thặng dư ngân sách, khối lượng trái phiếu Chính phủ phát hành từ đầu năm đến nay chỉ đạt 28,7% kế hoạch năm, so với mức 67,9% năm 2021.
Trước tình hình trên, WB khuyến nghị, mặc dù nền kinh tế vẫn đang phục hồi mạnh mẽ nhưng sự gia tăng những vấn đề bất ổn chính trị ảnh hưởng tới kinh tế toàn cầu đang khiến cho các điều kiện huy động tài chính toàn cầu bị thắt chặt. Điều này cho thấy sự cần thiết phải tăng cường tính cảnh giác và linh hoạt về chính sách. Trong điều kiện nền kinh tế chưa phục hồi đầy đủ và tăng trưởng ở những thị trường xuất khẩu chủ lực dự kiến sẽ yếu đi, chính sách tài khóa chủ động nhằm hỗ trợ nền kinh tế.
Trong thời gian tới, các cấp ngành cần bám sát kết quả kinh tế và phối hợp với chính sách tiền tệ. Hiện CPI đang tiệm cận mức 4% - bằng với mức chính sách được đưa ra nên cơ quan tiền tệ cần sẵn sàng cân nhắc thắt chặt hơn nữa chính sách tiền tệ để đảm bảo neo giữ lạm phát.
Khi giai đoạn giãn hoãn thời gian trả nợ kết thúc và điều kiện huy động tài chính bị thắt chặt, khu vực tài chính phải đối mặt với rủi ro gia tăng đòi hỏi phải có hướng dẫn từ phía Ngân hàng Nhà nước để ngăn chặn những rủi ro đó bị hiện thực hóa ở cấp độ ngành, có thể gây ảnh hưởng đến nền kinh tế thực.
Sự kiện xáo trộn gần đây liên quan đến vụ việc trong lĩnh vực ngân cho thấy nhu cầu cần nâng cao minh bạch thông qua công bố kịp thời thông tin chi tiết về kết quả hoạt động của khu vực ngân hàng, tăng cường quản trị doanh nghiệp và tăng cường giám sát dựa trên rủi ro, bao gồm giám sát hoạt động cho vay của các tập đoàn doanh nghiệp và cho vay bên liên quan để can thiệp sớm, tăng cường cơ chế xử lý ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm
IMF cắt giảm dự báo tăng trưởng kinh tế châu Á
14:55, 13/10/2022
Tăng trưởng kinh tế giúp tránh “lạm phát do tâm lý”
14:46, 18/09/2022
Dòng vốn FDI công nghệ cao thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam
03:00, 17/09/2022
Động lực tăng trưởng kinh tế chuyển từ bên ngoài vào nhu cầu trong nước
01:00, 06/09/2022
Việt Nam có thể đạt tăng trưởng kinh tế như dự báo?
05:00, 18/07/2022