Nghiên cứu - Trao đổi

Có nên luật hóa quy định về quyền thu giữ tài sản đảm bảo?

Gia Linh 04/03/2025 04:30

Ngân hàng Nhà nước vừa đề xuất cho phép tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ được quyền thu giữ tài sản bảo đảm…

Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đang đề nghị xây dựng dự án luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Các tổ chức tín dụng. Một trong những nhóm chính sách được Ngân hàng Nhà nước đề xuất tại dự luật này là luật hóa quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm.

co-nen-luat-hoa-quy-dinh-ve-quyen-thu-giu-tai-san-dam-bao-2.jpg
Ngân hàng Nhà nước vừa đề xuất cho phép tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ được quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Ảnh minh hoạ

Cụ thể, đơn vị này đề xuất bổ sung Điều 198a vào sau Điều 198 Luật Các tổ chức tín dụng theo hướng cho phép tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ được quyền thu giữ tài sản bảo đảm với các nội dung sau: quy định rõ tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ được quyền thu giữ tài sản bảo đảm.

Việc thu giữ tài sản bảo đảm chỉ được thực hiện trong trường hợp hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi phải xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật.

Quy định về thu giữ tài sản bảo đảm không phải là việc thu giữ đơn phương, vô điều kiện mà phải tuân thủ phạm vi, giới hạn, điều kiện thu giữ. Đồng thời, cần quy định về trình tự, thủ tục thu giữ, công bằng, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên có nghĩa vụ, tổ chức tín dụng và các bên có liên quan.

Để thực hiện được việc thu giữ phải bảo đảm đáp ứng các điều kiện: khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về dân sự; tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.

Cạnh đó, biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại tòa án có thẩm quyền; không đang bị tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật.

Tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ đã hoàn thành nghĩa vụ công khai thông tin về thời gian, địa điểm thu giữ tài sản bảo đảm, tài sản bảo đảm được thu giữ, lý do thu giữ.

Đánh giá tác động của đề xuất, Ngân hàng Nhà nước cho biết, giải pháp có thể gia tăng nguồn thu ngân sách nhà nước từ việc các bên có liên quan thực hiện nộp nghĩa vụ thuế do tăng thu, xử lý các khoản phải thu và tài sản bảo đảm. Đồng thời, quyền lợi của ngân hàng được đảm bảo sẽ khuyến khích ngân hàng có thêm động lực để cho vay, hạ lãi suất cho vay do giảm chi phí khi phải xử lý nợ, xử lý tài sản bảo đảm. Từ đó, doanh nghiệp và người dân có điều kiện tiếp cận, huy động vốn với lãi suất hợp lý nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh, góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước.

Khi người dân và doanh nghiệp được tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng sẽ góp phần xóa bỏ "tín dụng đen", từ đó góp phần giữ an ninh, trật tự xã hội, củng cố sự ổn định của hệ thống chính trị.

Ngân hàng Nhà nước cũng đề cập khía cạnh, khi bên vay (người dân và doanh nghiệp) ý thức được hệ quả pháp lý của việc không chủ động thanh toán các khoản nợ đúng hạn, bên vay sẽ có xu hướng đánh giá kỹ càng, sử dụng vốn vay an toàn và hiệu quả hơn, từ đó nâng cao nhận thức, năng lực tài chính của người dân, doanh nghiệp.

co-nen-luat-hoa-quy-dinh-ve-quyen-thu-giu-tai-san-dam-bao-1.jpg
Việc thu giữ tài sản bảo đảm là trách nhiệm của cả người vay và người cho vay. Tuy nhiên, hiện nay, người vay đang rất mạnh thế, còn người cho vay đang yếu thế bởi vì bên cho vay không có quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý. Ảnh minh hoạ

Thực tế, đề xuất tăng quyền cho các ngân hàng khi thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nợ xấu cũng từng được nhắc đến nhiều lần và nhận được sự ủng hộ của giới chuyên gia. Theo ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, việc thu giữ tài sản bảo đảm là trách nhiệm của cả người vay và người cho vay. Tuy nhiên, hiện nay, người vay đang rất mạnh thế, còn người cho vay đang yếu thế bởi vì bên cho vay không có quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý.

Ông Hùng cho biết hiện chưa có quy định pháp luật để xử lý người vay cố tình không trả nợ. Do đó, trong thực tiễn, nhiều khách hàng, người vay có tiền, có tài sản bảo đảm cũng không trả nợ.

Đồng quan điểm, TS Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó Chủ tịch Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia cũng ủng hộ đề xuất tăng quyền cho các ngân hàng khi thu giữ tài sản bảo đảm.

“Luật nên có quy định rõ ràng, giao ngân hàng thương mại tự chủ trong thu giữ, phát mại tài sản bảo đảm. Khi phát mại tài sản bảo đảm cũng không cần có đồng thuận của chủ tài sản nhưng phải thông báo cho họ biết. Tuỳ từng trường hợp, phải có thoả thuận giữa ngân hàng thương mại và chủ tài sản. Cũng cần có thêm quy định thu hồi và xử lý tài sản bảo đảm trong bao lâu, không phải ngân hàng thương mại thu hồi rồi ngâm đấy đợi giá lên mới xử lý”, Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa nói.

(0) Bình luận
Nổi bật
Mới nhất
Có nên luật hóa quy định về quyền thu giữ tài sản đảm bảo?
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO