Để doanh nghiệp Việt làm chủ công nghiệp đường sắt, cần một chiến lược đồng bộ từ Nhà nước về cơ chế, tiêu chuẩn và chính sách hỗ trợ.
Thời gian qua, Bộ Xây dựng đã báo cáo Bộ Chính trị, Chính phủ, trình Quốc hội 3 nghị quyết quan trọng gồm xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam; xây dựng đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; xây dựng, phát triển đường sắt đô thị của Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.
Trong các đề án báo cáo Bộ Chính trị, Bộ Xây dựng đặt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam có thể làm chủ công tác khảo sát, thiết kế và thi công đối với đường sắt có tốc độ từ 160km/h trở xuống và đường sắt đô thị. Về thông tin tín hiệu, từ năm 2030 trở đi, bắt đầu sản xuất phần mềm và làm chủ thiết bị hệ thống điều khiển, hệ thống điện động lực, sản xuất đầu máy, toa xe trong nước.
Đây được đánh giá bước chuyển mình đầy tham vọng, mở ra cơ hội lớn để Việt Nam xây dựng ngành công nghiệp đường sắt nội địa, giảm sự phụ thuộc vào nhà thầu và công nghệ nước ngoài. Tuy nhiên, để biến khát vọng thành hiện thực, cần có sự vào cuộc đồng bộ của cả Nhà nước lẫn doanh nghiệp.
Thực tế, nhiều doanh nghiệp xây dựng và cơ khí lớn khẳng định đã sẵn sàng tham gia vào các dự án đường sắt đô thị. PGS, TS Nguyễn Chỉ Sáng, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam nhấn mạnh, để làm chủ công nghệ, cần xây dựng được lộ trình phát triển công nghiệp đường sắt quốc gia gắn liền với việc phát triển mạng lưới đường sắt với tầm nhìn đủ dài và thực hiện một cách nhất quán và kiên định.
Ông Sáng cho rằng Việt Nam cần sớm xây dựng/lựa chọn được tiêu chuẩn cho các loại hình đường sắt để có thể mô đun hóa, làm cơ sở cho nội địa hóa các sản phẩm, dịch vụ đường sắt. Đồng thời, cần xác định cụ thể được sớm các sản phẩm, dịch vụ của công nghiệp đường sắt cần nội địa hóa và tỷ lệ nội địa hóa theo các giai đoạn. Quan trọng nhất là đưa các yêu cầu này vào hồ sơ mời thầu như điều kiện tiên quyết, giao một số công ty Nhà nước hoặc tư nhân thực hiện việc làm chủ và cung cấp hạng mục dịch vụ, chế tạo thiết bị quan trọng.
"Việt Nam phải tự chủ trong xây dựng các dự án đường sắt có tốc độ dưới 200 km/h (liên vùng và metro) bao gồm tư vấn thiết kế, quản lý dự án; thi công hạ tầng; chế tạo đầu máy, toa xe, thiết bị; thiết kế, chế tạo, tích hợp hệ thống thông tin, tín hiệu, điều khiển đoàn tàu; bảo dưỡng sửa chữa. Cần yêu cầu nhà thầu nước ngoài phải liên danh với các đơn vị thiết kế, chế tạo trong nước để đảm bảo tỷ lệ nội địa hóa của các dịch vụ và sản phẩm của dự án như điều kiện tiên quyết trong hồ sơ thầu”, ông Sáng chia sẻ.
Không chỉ dừng ở mức độ sẵn sàng, nhiều doanh nghiệp khẳng định hoàn toàn có đủ năng lực thi công các dự án quy mô lớn, ông Hồ Sỹ Hòa, Chủ tịch Công ty TNHH thương mại và xây dựng Trung Chính cho biết, hiện các doanh nghiệp ngành xây dựng Việt Nam hầu như đã làm chủ hoàn toàn công nghệ, biện pháp, thiết bị thi công hạng mục hầm, cầu. Điều các doanh nghiệp đang chờ đợi hiện nay là Nhà nước sớm ban hành bộ khung về tiêu chuẩn thiết kế, tiêu chuẩn thi công và nghiệm thu, tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng vật liệu và hạng mục thi công.
Thêm vào đó, Bộ Xây dựng cần sớm xây dựng phương án về cơ chế trình Chính Phủ, Quốc Hội về giải pháp lựa chọn nhà thầu để các doanh nghiệp có cơ sở, lòng tin, có cơ hội mạnh dạn đầu tư nghiên cứu, chuẩn bị nguồn lực, công nghệ, thiết bị. Song song đó để doanh nghiệp tìm hiểu hợp tác với đối tác trong nước và nước ngoài tránh tình trạng bị động và thời gian quá gấp.
“Với doanh nghiệp chúng tôi, nếu được giao các hạng mục cầu, hầm sẽ vào việc ngay và không mất thời gian tí nào”, ông Hòa khẳng định.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Việt Thắng, Tổng giám đốc Tập đoàn Hòa Phát chia sẻ, doanh nghiệp này đã đầu tư dự án sản xuất ray chất lượng cao và dự kiến cuối năm 2027 sẽ cho ra lò sản phẩm ray đầu tiên.
Ông Thắng kiến nghị Chính phủ đặt hàng doanh nghiệp thực hiện để đảm bảo đầu ra sản phẩm. Cùng đó, các cơ quan quản lý cần sớm ban hành bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn cho các loại ray, cho phép doanh nghiệp tham gia sâu vào khâu thiết kế và sản xuất để tạo ra sản phẩm đáp ứng đúng yêu cầu kỹ thuật.