Tìm kiếm khách hàng để xoay chuyển và linh hoạt thị trường xuất khẩu là giải pháp tối ưu doanh cho nghiệp trước sức ép từ thuế đối ứng của Mỹ và biến động toàn cầu.
Đó là chia sẻ của các doanh nghiệp ngành xuất khẩu nông - lâm -thủy sản, trước sức ép từ thuế đối ứng của Mỹ và bất ổn địa Chính trị toàn cầu.
Theo số liệu thống kê, trong 7 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đã đạt 39,7 tỷ USD. So với cùng kỳ, các thị trường truyền thống như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản tiếp tục giữ vững vai trò chủ lực, trong khi nhiều thị trường tiềm năng ghi nhận mức tăng trưởng đột phá như: EU (tăng 49%), Trung Đông (tăng 10,9%) và châu Phi (tăng 88,9%). Trong đó, ngành xuất khẩu gỗ của Việt Nam đạt 9,6 tỷ USD, riêng thị trường Mỹ chiếm 5,4 tỷ USD, tăng 11,6% so với cùng kỳ 2024. Tương tự, ở ngành lúa gạo thành công với chiến lược thị trường riêng biệt, xuất khẩu 5,5 triệu tấn gạo trong 7 tháng, thu về 2,8 tỷ USD, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước.
Ở ngành rau củ quả, 7 tháng đầu năm, xuất khẩu đạt trên 3,8 tỷ USD, giảm 6% so với cùng kỳ năm 2024. Song, ngành gỗ vẫn kỳ vọng vào vụ thu hoạch cuối năm để đạt mục tiêu 7,6 tỷ USD trong năm 2025, và có thể đạt 8 tỷ USD nếu triển khai đồng bộ các giải pháp.
Đáng chú ý, ở lĩnh vực thuỷ sản được đánh giá có nhiều triển vọng khi đạt kim ngạch 7 tỷ USD trong 7 tháng, tăng 10% so với cùng kỳ, nhờ chủ động đẩy mạnh xuất khẩu trước ngày 1/8 và đa dạng hóa thị trường sang ASEAN, châu Âu, Nam Mỹ, Nhật Bản. Tuy nhiên, thách thức rất lớn với mặt hàng tôm vì phải đối mặt với thuế chống bán phá giá lên tới 33%, và chưa kể các loại thuế khác. Trước sức ép này, các doanh nghiệp cho rằng việc tìm kiếm khách hàng để mở rộng thị trường là giải pháp tối ưu để duy trì và tồn tại là hết sức cần thiết.
Doanh nghiệp phải “tìm lối đi riêng”
Theo ông Trần Văn Lật - Chủ tịch HĐQT Công ty CP phát triển thuỷ sản Lộc Kim Chi, sức ép thuế đối ứng của Mỹ (20%), ảnh hưởng địa chính trị toàn cầu với những diễn biến hết sức khó lường đang là áp lực rất lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam. Và đó chính là một trong những lý do bắt buộc các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thuỷ sản phải thay đổi tư duy, “tìm lối đi riêng” thông qua việc liên kết sâu rộng với các đối tác ở nước ngoài, bằng nhiều hình thức khác nhau để tìm kiếm đơn hàng.
“Doanh nghiệp sẽ không còn cách nào khác ngoài việc chủ động tìm kiếm khách hàng ở các thị trường khác nhau để tồn tại. Tuy nhiên, đây là một vấn nan giải nếu không có sự đồng hành của các cơ quan Nhà nước. Trong đó, những chính sách của Nhà nước về phát triển hạ tầng, đối thoại, kết nối và xúc tiến thương mại sẽ là “đòn bẩy” để doanh nghiệp vượt qua khó khăn trong bối cảnh hiện nay. Quan trọng hơn là việc này không chỉ giúp cho các doanh nghiệp và ngành thuỷ sản phát triển ổn định, mà còn tạo động lực, hỗ trợ cho cả nền kinh tế trước những biến động khó lường như hiện nay”, ông Lật nói.
Cũng theo ông Lật, mặc dù chính sách áp thuế đối ứng 20% của Mỹ với thủy sản Việt Nam chưa được 1 tháng. Song, ngành tôm và cá tra là hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Nếu chỉ tính riêng ngành tôm thì thuế chống bán phá giá đã lên tới 33%. Với mức đánh thuế này so sánh một số nước, như: Ecuador (15%), Thái Lan (19%) và Ấn Độ (25%) thì các doanh nghiệp Việt Nam rất khó có thể cạnh tranh. Đây chính là những áp lực làm gia tăng nguy cơ các doanh nghiệp Việt bị mất thị trường Mỹ. Và điều này nếu xảy ra cũng không có gì là khó hiểu.
Cần phát triển thị trường nội địa
Theo ông Lật, tương tự, ở mặt hàng cá tra, hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu Việt đang bị đánh thuế 20%. Và về ngắn hạn các doanh nghiệp có thể chịu đựng được, nhưng về lâu dài vấn đề này sẽ là bài toán nan giải. Do đó, để tối đa hoá lợi nhuận và không bị chi phối và phụ thuộc bởi một thị trường thì về lâu dài các doanh nghiệp vẫn phải "tìm lối đi riêng", mở rộng thị trường sang các nước khác để hưởng lợi và cạnh tranh từ thuế. Song song đó, các doanh nghiệp cũng phải chủ động lên phương án phát triển thị trường nội địa để phát triển bền vững.
Tương tự, ở ngành gỗ, ông Lê Mạnh - Chủ tịch HĐQT Công ty Leglor, việc chênh lệch thuế đối ứng giữa Việt Nam (20%) với các đối thủ như: Indonesia, Malaysia (19%), mặc dù không đáng kể. Song, về lâu dài, các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là những doanh nghiệp có quy mô bài bản, đầu tư dây chuyền công nghệ hiện đại, có số lượng lao động lớn và đang phải duy trì đơn hàng phải hết sức chú ý. Trong đó, điều kiện tiên quyết là cần phải có kế hoạch cụ thể, rõ ràng để đàm phán linh hoạt, nếu không rủi ro sẽ rất cao.
Theo ông Mạnh, nếu xét ở thời điểm hiện tại có thể chúng ta chưa đánh giá được một cách toàn diện và chính xác. Song, với những diễn biến khó lường như hiện nay, các doanh nghiệp đang rất áp lực và lo lắng. Vì vậy, để linh hoạt, các doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị kỹ các phương án, đối sách, chiến lược thích ứng để không rơi vào thế bị động. Bên cạnh đó, cần mở rộng nhiều thị trường khác nhau, trong đó, nghiên cứu kỹ thị trường nội địa để giữa chân người lao động và không lãng phí công suất, năng lực sản xuất.
Đáng chú ý, liên quan tới những bất cập về thị trường xuất khẩu hàng nông - lâm - thuỷ hải sản của Việt Nam, ông Nguyễn Thành Nam - Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước (Bộ Công Thương), nhận định: Dù là ngành kinh tế mũi nhọn với kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt khoảng 10 tỷ USD và có mặt tại 170 quốc gia, ngành thủy sản lại đang để trống "sân nhà".
Theo ông Nam, thủy hải sản nhập khẩu đang chiếm khoảng 40% thị trường tiêu dùng nội địa. Trong khi đó, quy mô thị trường trong nước chỉ đạt khoảng 1 tỷ USD và mức tiêu thụ bình quân đầu người chỉ khoảng 40kg/năm, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực là hết sức bất cập.
Cũng theo ông Nam, nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do hệ thống phân phối còn lạc hậu, thiếu kết nối giữa doanh nghiệp sản xuất và các kênh bán lẻ hiện đại; thói quen tiêu dùng khác biệt giữa các vùng miền. Do đó, đã đến lúc các doanh nghiệp phải từ bỏ tư duy xem thị trường nội địa là "phần thừa" của xuất khẩu. Thay vào đó, cần đầu tư bài bản từ nghiên cứu thị hiếu, thiết kế bao bì, xây dựng thương hiệu và phát triển kênh phân phối để khai thác hiệu quả tiềm năng của thị trường 100 triệu dân.