Để đảm bảo thực tiễn, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường thống nhất giao Chính phủ phân loại, quản lý cung ứng dịch vụ tài sản số tại Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số.
Theo chương trình Phiên họp thứ 41, sáng 6/01, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số.
Trong đó, đề cập một số vấn đề về giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội - Lê Quang Huy nhấn mạnh, trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã tổ chức phối hợp, nghiên cứu, kịp thời thể chế hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; nghiêm túc thực hiện Quy định số 178-QĐ/TW của Bộ Chính trị và các Công thư số 15, số 17 của Chủ tịch Quốc hội.
Theo ông Huy, về nội hàm công nghệ số và phạm vi điều chỉnh của Dự thảo Luật, có ý kiến đề nghị làm rõ nội hàm công nghệ số theo hướng xác định bản chất thay vì liệt kê các công nghệ cụ thể. Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, thuật ngữ “công nghệ số” tại khoản 1 Điều 3 được chỉnh lý, quy định bản chất, làm rõ nội hàm, không liệt kê công nghệ cụ thể nhằm khái quát, bảo đảm tính ổn định của pháp luật.
Một số ý kiến đề nghị rà soát, làm rõ phạm vi điều chỉnh; xác định rõ mối quan hệ giữa Dự án Luật này với các luật khác có liên quan như Luật Công nghệ thông tin, Luật Công nghệ cao, Luật Giao dịch điện tử, Luật Dữ liệu. Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường nhận thấy, hồ sơ dự án Luật Công nghiệp công nghệ số đã có Báo cáo rà soát các văn bản quy phạm pháp luật và các điều ước quốc tế liên quan đến dự án Luật.
Trong đó, Báo cáo rà soát đề cập một số luật có liên quan chủ yếu như: Luật Công nghệ thông tin, Luật Công nghệ cao, Luật Giao dịch điện tử, Luật Dữ liệu. Qua nghiên cứu, rà soát, tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo Luật không có xung đột, mâu thuẫn với các Luật Công nghệ thông tin, Luật Công nghệ cao, Luật Giao dịch điện tử, Luật Dữ liệu, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Tuy nhiên, đề cập về tài sản số (Điều 13 và Điều 14), ông Huy cho biết, có ý kiến cho rằng, tài sản số là vấn đề mới, thay đổi nhanh cần có sự đầu tư nghiên cứu, rà soát kỹ hơn và nên giao Chính phủ quy định chi tiết. Ý kiến khác cho rằng, cần nghiên cứu để bổ sung quy định về các loại tài sản số trong Dự thảo Luật.
Để có thêm cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện nội dung này, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã phối hợp tổ chức làm việc với các cơ quan chuyên môn có liên quan.
“Qua nghiên cứu, trao đổi, thảo luận, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường thấy rằng, tài sản số là vấn đề mới, phức tạp, phát triển, thay đổi nhanh chóng; hiện nay trên thế giới cũng chưa có khung pháp lý quy định đầy đủ về vấn đề này và vẫn còn có quan điểm khác nhau. Do đó, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, thống nhất quy định khung về vấn đề này (Điều 13 và Điều 14) như khái niệm, phân loại tài sản số dựa trên mục đích sử dụng, công nghệ và các tiêu chí khác; giao Chính phủ quy định phân loại, thẩm quyền, nội dung quản lý tài sản số, cung ứng dịch vụ tài sản số phù hợp với điều kiện thực tiễn”, ông Huy chia sẻ.
Đồng thời cho rằng, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường nhận thấy, các quy định về tài sản số trong Dự thảo Luật sau khi tiếp thu, chỉnh lý, không chồng chéo, mâu thuẫn với pháp luật hiện hành; không phải sửa đổi Bộ luật Dân sự, Luật Giao dịch điện tử và Luật Chứng khoán.
Cùng với đó, về trí tuệ nhân tạo (Điều 54 và Điều 55), ông Huy cũng cho hay, có ý kiến đề nghị xác định rõ các tiêu chí hệ thống trí tuệ nhân tạo có rủi ro cao, phạm vi tác động lớn, bổ sung quy định về hạn chế rủi ro và các nguyên tắc quản lý rủi ro; ý kiến khác đề nghị bổ sung quy định giao Chính phủ hướng dẫn về vấn đề quản lý rủi ro. Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường thống nhất quan điểm xây dựng quy định quản lý về trí tuệ nhân tạo trong dự thảo Luật dựa trên nguyên tắc quản lý rủi ro đồng thời khuyến khích phát triển, lấy con người làm trung tâm. Nguyên tắc quản lý này được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Dự thảo Luật quy định về: Quản lý hệ thống trí tuệ nhân tạo có rủi ro cao, hệ thống tác động lớn; Sản phẩm được tạo ra bởi hệ thống trí tuệ nhân tạo phải có dấu hiệu nhận dạng rõ ràng.
Về tiêu chí xác định hệ thống trí tuệ nhân tạo rủi ro cao, phạm vi tác động lớn, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho rằng, theo Đạo luật Trí tuệ nhân tạo của Liên minh Châu Âu, danh mục hệ thống trí tuệ nhân tạo rủi ro cao được xác định trên cơ sở mức độ ảnh hưởng sức khỏe, sự an toàn, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Dự thảo Luật đã bổ sung nội dung này (Điều 54), quy định những tiêu chí cơ bản và giao Chính phủ quy định cụ thể về phân loại, thẩm quyền, nội dung quản lý hệ thống trí nhân tạo có tác động, rủi ro cao, trách nhiệm, miễn trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan để bảo đảm linh hoạt trong quản lý, điều hành…