Theo nhiều chuyên gia, châu Á cần theo dõi cả giá dầu và khả năng cung ứng dầu mỏ trong năm 2026 khi thị trường ẩn chứa nhiều điều không chắc chắn.

Nhiều ý kiến cho rằng, năm 2026 có vẻ là một năm khá dễ chịu đối với các nước nhập khẩu dầu mỏ. Hầu hết các dự báo đều có sự đồng thuận rộng rãi rằng nguồn cung dầu mỏ toàn cầu sẽ tương đối dồi dào, khi việc dỡ bỏ các biện pháp cắt giảm sản lượng của OPEC và ngoài OPEC, cùng với tăng trưởng sản lượng ngoài liên minh này, tiếp tục vượt lên so với đà tăng nhu cầu đang chậm lại.
Giá dầu Brent bình quân trong năm nay thấp hơn khoảng 11 USD/thùng so với năm 2024, và phần lớn các triển vọng đều cho thấy xu hướng giảm nhẹ hơn nữa.
Đối với châu Á, khu vực chiếm phần lớn mức tăng nhu cầu dầu toàn cầu, điều này dường như là tín hiệu tích cực. Tuy nhiên, những thùng dầu đang được vận chuyển qua những tuyến thương mại ngày càng dễ tổn thương, khiến giá dầu năm 2026 tiềm ẩn nhiều rủi ro tăng giá.
Cụ thể, cuộc chiến tại Ukraine vốn đã tác động đến các nhà máy lọc dầu, cơ sở xuất khẩu và các tuyến hàng hải. Quốc gia này cũng đã nhắm vào hạ tầng xuất khẩu ở Biển Đen làm gián đoạn dòng chảy dầu thô từ Kazakhstan.
Song song đó, Ukraine bắt đầu nhắm mục tiêu vào “đội tàu bóng tối” của Nga, những tàu chở dầu cũ, bảo hiểm hạn chế, chuyên vận chuyển dầu bị trừng phạt, gây bất ổn cho các cảng từ Bosphorus đến Suez.
Với các nhà máy lọc dầu châu Á, vấn đề không chỉ là khả năng tiếp cận dầu Nga và Kazakhstan, mà còn là việc bất kỳ gián đoạn kéo dài hay cú sốc bảo hiểm nào tại hành lang này đều có thể nhanh chóng làm đội chi phí vận chuyển toàn cầu.
Tương tự, một điểm nóng khác đã xuất hiện ở khu vực Caribe. Mỹ gần đây đã bắt giữ một tàu chở dầu siêu lớn bị trừng phạt ngoài khơi Venezuela. Một cuộc khủng hoảng âm ỉ khác là thế đối đầu kéo dài giữa Mỹ và Iran. Washington đã tăng cường thực thi các lệnh trừng phạt, bao gồm những biện pháp mới nhắm vào các công ty và tàu bị cáo buộc vận chuyển dầu Iran.
Các lệnh trừng phạt gần đây của Mỹ đối với cảng Rizhao Shihua ở Sơn Đông, Trung Quốc đã buộc các nhà máy lọc dầu Trung Quốc phải đổi hướng tàu siêu lớn và sắp xếp lại các lô hàng, cho thấy việc hành động đối với một cảng đơn lẻ cũng có thể lan tỏa mạnh mẽ đến thị trường vận tải và cước phí khu vực.
Trong khi đó, khi căng thẳng Israel–Iran đã từng bùng phát thành đối đầu trực tiếp trong năm nay, bất kỳ xung đột nào lan sang Eo biển Hormuz đều sẽ giáng đòn nặng nề nhất vào người tiêu dùng châu Á.
Trung Đông và châu Phi nói chung cũng khó có thể gọi là yên ổn. Tại miền Nam Yemen, các lực lượng được UAE hậu thuẫn và quân đội chính phủ được Saudi Arabia ủng hộ đã đụng độ nhau để giành quyền kiểm soát các tỉnh giàu dầu mỏ và thành phố cảng Aden.
Rạn nứt giữa hai đồng minh trên danh nghĩa này có nguy cơ làm chệch hướng các nỗ lực hòa bình và làm sâu sắc thêm căng thẳng Saudi–UAE, gia tăng bất định quanh Biển Đỏ và Biển Arab. Bên cạnh đó, nội chiến tại Sudan đã lan sang các khu vực sản xuất dầu.
Điều này nhắc nhở rằng dầu từ các quốc gia mong manh, vận chuyển qua những đường ống dài và dễ tổn thương, có thể biến mất khỏi thị trường gần như không báo trước.
Bà Vandana Hari, người sáng lập Vanda Insights, một nhà cung cấp thông tin thị trường năng lượng toàn cầu có trụ sở tại Singapore nhận định, các quốc gia châu Á cần tách bạch giữa “giá thấp” và “rủi ro thấp”. Bên cạnh đó, bà Hari cho rằng, các quốc gia châu Á cần đa dạng hóa không chỉ nhà cung cấp mà cả tuyến vận chuyển và cơ cấu dầu thô. Đến nay, châu Á đã mở rộng nguồn cung sang Brazil, Guyana và vùng Vịnh Mỹ.

Bước tiếp theo là chú trọng đến các tuyến đường và tính linh hoạt sản phẩm: đầu tư vào hạ tầng cảng và kho chứa để có thể tiếp nhận dầu từ lưu vực Đại Tây Dương khi các tuyến Biển Đen hay Vùng Vịnh bị hạn chế, đồng thời bảo đảm các nhà máy lọc dầu có thể chuyển đổi giữa các loại dầu khác nhau khi chính trị làm thay đổi nguồn cung.
Chuyên gia này cũng chỉ ra rằng cần sử dụng kho dự trữ chiến lược và phối hợp khu vực một cách chủ động hơn. Một số quốc gia châu Á, thành viên Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), cùng với Trung Quốc và Ấn Độ đã xây dựng kho dự trữ dầu chiến lược, nhưng quyết định xả hay tái tích trữ thường vẫn mang tính phản ứng và thuần túy trong nước.
Các nhà nhập khẩu châu Á sẽ hưởng lợi nếu có những ngưỡng kích hoạt rõ ràng, được thống nhất cho các phản ứng chung: xả kho phối hợp, các thỏa thuận hoán đổi, và những linh hoạt pháp lý có thời hạn để chuyển hóa việc đổi tuyến vận chuyển.
Đồng thời, thúc đẩy các quy tắc rõ ràng hơn về trừng phạt và vận tải. Phần lớn sự mong manh hiện nay bắt nguồn từ việc thực thi trong “vùng xám”, các lệnh trừng phạt rộng nhưng áp dụng không đồng đều, khuyến khích sự phát triển của một đội tàu bóng tối ít được quản lý.
Bà Hari cho biết, các chính phủ châu Á không phải là bên ban hành các biện pháp này, nhưng với tư cách là những người mua lớn, họ có đòn bẩy. Ngoại giao thầm lặng, mang tính tập thể nhằm làm rõ hướng dẫn tuân thủ, giám sát chung các tàu rủi ro cao, và nâng tiêu chuẩn an toàn, môi trường ngay cả trong các giao dịch chịu ảnh hưởng bởi trừng phạt sẽ giúp giảm nguy cơ sự cố hay bắt giữ tàu trở thành cú sốc mang tính hệ thống.
Câu chuyện dầu mỏ của châu Á năm 2026 sẽ không chỉ xoay quanh mức giá, mà còn là vấn đề về tính linh hoạt khi có nhiều cách khác nhau để đưa năng lượng vào, và giảm mức tiêu thụ khi hệ thống bị căng thẳng. Điều này đòi hỏi các quyết định ngay từ bây giờ để tính đến những thực tế phức tạp hơn.