Việt Nam xuất hiện nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Nếu không có các chính sách đủ mạnh, đủ nhanh, nguy cơ doanh nghiệp trong nước bị tụt lại là rất rõ.

Hiện nay, gần 90% doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ là doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy mô dưới 300 lao động. Với nền tảng yếu, họ phải đối mặt cùng lúc với khó khăn về thị trường, công nghệ, nhân lực và đặc biệt là nguồn vốn. Nhiều doanh nghiệp chưa mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực vốn đòi hỏi chi phí lớn và thời gian thu hồi vốn kéo dài như ngành cơ khí.
Trong bối cảnh thế giới liên tục điều chỉnh chiến lược chuỗi cung ứng, Việt Nam xuất hiện nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Nếu không có các chính sách đủ mạnh, đủ nhanh, nguy cơ doanh nghiệp trong nước bị tụt lại là rất rõ.
Về sản xuất, để đầu tư một nhà máy khoảng 2 ha trong khu công nghiệp, riêng chi phí đất đã khoảng 100 tỷ đồng; cộng thêm 100 tỷ đồng cho xây dựng hạ tầng, tổng mức đầu tư ban đầu lên tới 200 tỷ đồng. Khi phần lớn vốn đã “chôn” vào đất và nhà xưởng, doanh nghiệp gần như không còn dư địa đầu tư máy móc, công nghệ hiện đại; quá trình nâng cấp phải kéo dài qua nhiều năm, khiến năng lực cạnh tranh ngày càng yếu.
Không ít doanh nghiệp, sau khi cố gắng vay vốn để đầu tư cả nhà xưởng và công nghệ, đã rơi vào tình trạng quá tải tài chính khi thị trường biến động. Với quy mô 300 tỷ đồng vốn vay và lực lượng 400 – 500 lao động, chi phí duy trì sản xuất có thể lên đến 20 tỷ đồng mỗi tháng, bao gồm nhân công, lãi vay và hàng loạt chi phí vận hành khác.
Từ thực trạng trên, chúng tôi kiến nghị: Cần cải cách mạnh thủ tục ưu đãi và hỗ trợ, đảm bảo nhanh, rõ ràng, dễ tiếp cận. Đồng thời thành lập gói tín dụng chuyên biệt cho công nghiệp hỗ trợ với lãi suất ưu đãi, thời hạn vay dài, tập trung vào nhóm các doanh nghiệp sản xuất nội địa.
Bên cạnh đó, Nhà nước sớm hình thành các khu công nghiệp chuyên biệt với chi phí đất hợp lý. Có chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ theo hướng “nhận ngay, hoàn trả dần”, giúp doanh nghiệp rút ngắn thời gian nâng cấp sản xuất.