Để đảm bảo phù hợp với thực tế hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã, góp ý Dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi), một số ý kiến đề nghị, cân nhắc quy định về mất khả năng thanh toán.
Theo đó, Tòa án nhân dân (TAND) tối cao vừa công bố Dự thảo lần 2 Luật Phá sản (sửa đổi), tại phiên bản này, ngoài bổ sung thêm các quy định mới như đề xuất tạm hoãn xuất cảnh đối với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi Tòa án ra quyết định mở thủ tục phục hồi, quyết định mở thủ tục phá sản, TAND Tối cao cũng đề xuất các nguyên tắc cơ bản của pháp luật phá sản là công khai, minh bạch trong việc giải quyết thủ tục phục hồi và tuyên bố phá sản; công bằng trong phân chia tài sản phá sản theo thứ tự ưu tiên theo quy định pháp luật và tối đa hóa giá trị tài sản phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Đặc biệt, tại Dự thảo lần 2 này, TAND Tối cao cũng quy định rõ 02 phương án đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán:
Phương án 1 - doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán, trừ trường hợp sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
Phương án 2 - doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.
Xoay quanh vấn đề này, tham gia góp ý, không ít ý kiến cho hay, đây là một trong những vấn đề doanh nghiệp quan tâm nhất khi tiếp cận Luật Phá sản, tuy nhiên, những quy định được đề xuất cần được cân nhắc để đảm bảo phù hợp với thực tế.
Góp ý về nội dung này trong văn bản trả lời Công văn số 20/TANDTC-PC của Tòa án nhân dân tối cao, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, về cơ bản, cả hai phương án này là giống nhau, chỉ khác nhau ở thời hạn doanh nghiệp không thanh toán khoản nợ đến hạn: 03 tháng hoặc 06 tháng.
Theo VCCI, xét bản chất, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các khoản nợ khi đến hạn, có tổng số nợ lớn hơn tổng tài sản. Việc Dự thảo đặt ra quy định doanh nghiệp “không thực hiện nghĩa vụ thanh toán” chưa phản ánh được tính trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Thực tế, có nhiều doanh nghiệp có đầy đủ khả năng thanh toán nhưng do nhiều nguyên nhân không chịu thanh toán hoặc không thể thanh toán tại thời điểm bị đòi nợ (do chưa thu hồi được nợ, …). Căn cứ này có khả năng trở thành “công cụ” để cho các đối tác “đòi nợ” lẫn nhau. Điều này có thể dẫn tới hậu quả là doanh nghiệp bị đòi nợ bị thiệt hại về uy tín và thiệt hại trên thực tế.
Vì vậy, VCCI đề nghị nghiên cứu quy định về “doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán” theo hướng doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán các khoản nợ khi đến hạn, có thể nghiên cứu xem xét trong tình hình thực tế của doanh nghiệp có tổng số nợ lớn hơn tổng tài sản.
Trong trường hợp, Ban soạn thảo có lý do để giữ lại phương thức quy định như đề xuất tại Dự thảo, để có tính định lượng, dễ áp dụng, cân nhắc lựa chọn Phương án 1.
Cùng với nội dung đã nêu, liên quan đến quy định doanh nghiêp, hợp tác xã có nguy cơ mất khả năng thanh toán (khoản 2 Điều 5), VCCI cho rằng, khoản 2 Điều 5 Dự thảo quy định khái niệm mới “doanh nghiệp, hợp tác xã có nguy cơ mất khả năng thanh toán” là doanh nghiệp, hợp tác xã nếu thực hiện việc thanh toán khoản nợ đến hạn trong vòng 06 tháng tiếp theo hoặc khoản nợ đến hạn nhưng chưa quá 06 tháng kể từ ngày nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã.
“Đây là căn cứ để các chủ thể đề nghị thực hiện thủ tục phục hồi doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm này và khái niệm “doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán” có những nét tương đồng và khó có thể phân biệt rõ ràng.
Nếu nhìn dưới góc độ của chủ nợ, các khoản nợ trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày đến hạn, doanh nghiệp, hợp tác xã không thanh toán (trong trường hợp doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán, doanh nghiệp cũng sẽ không thanh toán vì nếu thanh toán thì đặt doanh nghiệp vào tình trạng ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh) sẽ không biết được trường hợp nào “doanh nghiệp mất khả năng thanh toán” để yêu cầu phá sản hay thuộc trường hợp “nguy cơ mất khả năng thanh toán” để yêu cầu phục hồi.
Mặt khác, khái niệm “ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh” cũng chưa thực sự rõ để có thể xác định được tình trạng của doanh nghiệp”, VCCI góp ý.
Đồng thời đề nghị Ban soạn thảo xem xét lại vấn đề trên để quy định về khái niệm này rõ ràng và có khả năng phân biệt với khái niệm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Đồng quan điểm, tham gia góp ý liên quan đến nội dung này, không ít ý kiến cũng cho hay, thực tiễn thi hành Luật Phá sản 2014 cho thấy đã bộc lộ nhiều bất cập, từ điều kiện áp dụng thủ tục phá sản, trình tự thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, đến khả năng thực thi trong thực tế.
Những hạn chế này không chỉ khiến quá trình xử lý phá sản kéo dài mà còn gây khó khăn cho doanh nghiệp và các chủ thể liên quan trong việc lựa chọn phương án tối ưu khi gặp khó khăn tài chính. Vì vậy, để tạo thuận lợi khi tham gia thủ tục phá sản, quy định về mất khả năng thanh toán cần được xác định một cách rõ ràng.