Thị trường thủy tinh tại Việt Nam có sản lượng khoảng 220.000 tấn, đồng nghĩa với rất nhiều cơ hội để xây dựng cơ sở hạ tầng bền vững.
Theo các chuyên gia, thủy tinh có thể tái chế 100% và có thể tái chế vô tận mà không làm giảm chất lượng hoặc độ tinh khiết, giúp chất liệu này trở thành ứng cử viên lý tưởng cho nền kinh tế tuần hoàn.
Năm 2020, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á giới thiệu Chương trình Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR). EPR yêu cầu các công ty sản xuất và nhập khẩu đóng góp vào những nỗ lực quốc gia nhằm tăng tỷ lệ tái chế tại hộ gia đình đối với các vật liệu như nhựa PET, lon nhôm và thủy tinh. Tuy nhiên, tỷ lệ tái chế thủy tinh ở Việt Nam vẫn còn thấp ở mức 15%, trong khi tỷ lệ này đối với lon nhôm là 70% và chai nhựa là 32-45%.
Báo cáo Phát triển Bền vững năm 2024 tại Việt Nam của Liên minh Rượu mạnh và Rượu vang Quốc tế Châu Á - Thái Bình Dương (APISWA) cho thấy, cơ sở hạ tầng để phân loại, thu gom và tái chế chai thủy tinh tại Việt Nam vẫn còn chưa phát triển. Việc xác định những thách thức cụ thể mà các bên liên quan trong toàn bộ chuỗi giá trị tại Việt Nam phải đối mặt, từ những người thu gom phế liệu cá nhân đến các doanh nghiệp phế liệu và nhà sản xuất thủy tinh, cũng như người tiêu dùng đòi hỏi rất nhiều nguồn lực và hoạt động. Cách tiếp cận toàn diện này là chìa khóa để phát triển các giải pháp phù hợp mang lại sự thay đổi trong ngành tái chế thủy tinh.
Theo ông Bayard Sinnema - Giám đốc Thương mại khu vực châu Á của O-I Glass, Inc., nhà sản xuất chai thủy tinh hàng đầu thế giới, thị trường thủy tinh tại Việt Nam có sản lượng khoảng 220.000 tấn, đồng nghĩa với rất nhiều cơ hội để xây dựng cơ sở hạ tầng bền vững và có khả năng mở rộng quy mô, mang lại lợi ích cho tất cả các bên liên quan.
“Ngành này có thể dẫn đầu trong việc thúc đẩy các nỗ lực giáo dục hệ sinh thái tái chế rác thải thủy tinh về giá trị của việc chuyển hướng thủy tinh khỏi bãi chôn lấp. Khi chỉ ra được các cơ hội và giá trị trong việc tái chế thủy tinh. Chúng ta có thể thu hút nhiều nguồn đầu tư hơn để xây dựng cơ sở hạ tầng tốt hơn”, ông Bayard Sinnema đánh giá.
Trong khi đó, ông Hồ Quốc Thông - Giảng viên, nhà nghiên cứu tại Viện Kinh tế Môi trường Đông Nam Á (EEPSEA) cho rằng, một chính sách duy nhất là không đủ để giải quyết một vấn đề phức tạp như tái chế thủy tinh. Theo ông, lựa chọn tốt nhất hiện nay là kết hợp những công cụ pháp lý và công cụ dựa trên thị trường, cũng như hợp tác với các hiệp hội trong ngành như APISWA để thực hiện giáo dục cộng đồng, hay còn gọi là sáng kiến hành vi, về tái chế thủy tinh.
Cũng theo ông Hồ Quốc Thông, Chương trình EPR là cơ hội để các nhà sản xuất chia sẻ trách nhiệm với Chính phủ và xã hội vì sự phát triển bền vững. Điều này bao gồm việc triển khai các chương trình thí điểm để hỗ trợ những người thu gom rác thải, doanh nghiệp và hộ gia đình giảm chi phí tái chế thủy tinh hoặc thiết lập các ưu đãi kinh tế phù hợp cho thị trường tái chế thủy tinh.
“Việc tạo ra thị trường tái chế rác thải thủy tinh cũng góp phần làm cho ngành công nghiệp thủy tinh bền vững hơn thông qua việc giảm tiêu thụ năng lượng và sự phụ thuộc vào nguyên liệu thô”, ông Hồ Quốc Thông chia sẻ.
Với vai trò Phó Chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Bia – Rượu – Nước giải khát Việt Nam (VBA), bà Chu Thị Vân Anh chia sẻ: “Với tinh thần đồng hành cùng Chính phủ trong các nỗ lực bảo vệ môi trường, ủng hộ tái chế sản phẩm, bao bì để thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam, doanh nghiệp mong muốn các chính sách được ban hành đồng bộ, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam để tạo cơ chế động lực cho các nhà sản xuất, nhà tái chế cùng phát triển bền vững”.