Việt Nam có cơ hội chuyển đổi sang xe máy điện. Tuy nhiên, cần có các biện pháp can thiệp với những chính sách then chốt, để phổ biến xe máy điện nhanh chóng trên quy mô lớn.
Ấn phẩm “Việt Nam: Đề xuất cho lộ trình và kế hoạch hành động quốc gia về chuyển đổi sang phương tiện giao thông chạy điện” do Ngân hàng Thế giới xuất bản cho biết, trước năm 2035, xe máy vẫn là phương tiện giao thông cá nhân chính tại Việt Nam. Dự báo có tổng cộng khoảng 32 triệu xe máy các loại sẽ được bán ra tại Việt Nam từ nay tới 2035. Sau đó giảm mạnh xuống chỉ còn 9,6 triệu xe bán ra trong giai đoạn từ 2035-2050. Tính về tổng số, cả nước sẽ có khoảng 110 triệu xe máy đăng ký lưu hành vào năm 2040.
Theo số liệu từ Bộ Giao thông Vận tải đến cuối năm 2023, cả nước có trên 73 triệu xe máy các loại đăng ký, trong đó có khoảng 3 triệu xe máy điện, còn lại là xe máy xăng. Tỷ lệ xe máy điện so với xe máy xăng còn rất thấp.
Hiệp hội Ô tô, Xe đạp, Xe máy Việt Nam (VAMOBA) cho biết, đã có thời điểm quy mô thị trường xe đạp điện, xe máy điện đạt mức 700 ngàn xe/năm, nhưng từ sau đại dịch Covid-19, bị đẩy tụt về mức dưới 400 ngàn xe/năm.
Tính toán của các chuyên gia thuộc Ngân hàng Thế giới cho thấy, để đạt được mục tiêu giảm phát thải trong ngành giao thông mà Chính phủ đặt ra tại Quyết định 876/QĐ-TTg ngày 22/7/2022, doanh số bán xe máy điện phải đạt 12-16 triệu chiếc trong giai đoạn 2024 - 2035, tương ứng với tỷ lệ 42% và 56% tổng doanh số bán xe hai bánh tại Việt Nam trong giai đoạn này.
Muốn đạt con số này thì doanh số bán bình quân giai đoạn 2024 - 2035 phải đạt bình quân từ 1-1,3 triệu xe máy điện các loại/năm. Năm 2024 ước tính doanh số bán chỉ đạt khoảng 400 ngàn xe.
Ngân hàng Thế giới cho rằng, cần có các biện pháp can thiệp với những chính sách then chốt để thúc đẩy người tiêu dùng chuyển nhanh sang xe máy điện. Thị trường cung ứng xe máy điện ở Việt Nam hiện khá đa dạng và sôi động, với nhiều nhà cung cấp cạnh tranh về chất lượng và giá cả. Mức độ đón nhận của người tiêu dùng đối với xe máy điện cũng khá cao, đặc biệt là ở thành thị.
Tuy nhiên, rào cản chính đối với việc phổ biến xe điện hai bánh nhanh chóng trên quy mô lớn là giá bán cao hơn so với xe máy xăng. Mặc dù chi phí của một số mẫu xe điện hai bánh điện hai bánh và xe máy xăng đã tương đương nhau, nhưng những mẫu xe điện hai bánh đó lại không thực sự có hiệu suất vận hành tương đương.
Ví dụ, mẫu xe điện sử dụng pin a-xit chì có giá mua là khoảng 27 triệu đồng, cùng khoảng giá với một chiếc xe tay ga sử dụng động cơ đốt trong. Xét về tổng thể, chi phí sở hữu trong 5 năm sử dụng, xe máy điện sử dụng pin a-xit chì thấp hơn khoảng 27% so với xe tay ga. Nhưng xe điện hai bánh lại có công suất, tốc độ và tuổi thọ thấp hơn nhiều so với xe tay ga.
Trong khi đó, xe máy điện sử dụng pin li-ion sẽ cho hiệu suất tương đương với xe tay ga sử dụng động cơ đốt trong. Tuy nhiên, giá mua của xe máy điện này cao hơn 2,7 lần và chi phí sở hữu cao hơn 1,7 lần so với xe ga sử dụng động cơ đốt trong.
Ngoài chênh lệch về giá, mối lo ngại về an toàn pin cũng là rào cản lớn cho việc sử dụng xe điện hai bánh. Cả pin a-xit chì và pin li-ion mà xe điện hai bánh sử dụng đều có thể dẫn đến nguy cơ cháy nổ hoặc điện giật. Những lý do chủ yếu dẫn đến các sự cố nguy hiểm như vậy bao gồm sạc quá mức, tiếp xúc với nhiệt độ khắc nghiệt hoặc sử dụng thiết bị sạc không được thiết kế cho pin, Ngân hàng Thế giới nhận xét.
Hiện Việt Nam chưa có chính sách nào hỗ trợ xe máy điện. Doanh nghiệp sản xuất lắp ráp xe máy điện, nhập khẩu linh kiện phải chịu thuế suất 20%. Xe máy điện vẫn chịu lệ phí trước bạ và phí cấp biển số như xe máy xăng. Chính vì thế, giá xe máy điện còn khá cao so với xe máy xăng.
Các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới cho rằng, nếu không chính sách hỗ trợ, nhu cầu về xe điện hai bánh sẽ tăng trưởng chậm và doanh số đạt đỉnh khoảng 515 ngàn xe/năm vào năm 2030.