Doanh nghiệp thủy sản Việt cần linh hoạt thích ứng và minh bạch để tận dụng “cửa sổ vàng”, đồng thời cũng cần thận trọng để tránh bị cuốn vào vòng xoáy cạnh tranh tiêu cực.
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc leo thang với mức thuế chưa từng có đang mở ra cơ hội để Việt Nam củng cố vị thế tại thị trường Mỹ.
Theo đó, với tổng sản lượng năm 2024 đạt 74,1 triệu tấn (tăng 4%), xuất khẩu thủy sản của Trung Quốc đạt 4,08 triệu tấn (tăng 12,4%) và giá trị 19,5 tỷ USD (tăng 0,5%). Tuy nhiên, thị trường Mỹ – từng chiếm 15-20% tổng kim ngạch xuất khẩu – đang thu hẹp đáng kể do chiến tranh thương mại và thuế quan. Năm 2024, xuất khẩu thủy sản Trung Quốc sang Mỹ chỉ còn 354.900 tấn, giảm 13,93% so với 700.000 - 900.000 tấn năm 2023. Nếu xu hướng này tiếp diễn, dự báo đến năm 2028, giá trị xuất khẩu thủy sản Trung Quốc có thể giảm xuống còn 9,2 tỷ USD (so với 11,6 tỷ USD năm 2023), mất đi một phần tư giá trị do các rào cản thương mại.
Hiện nay, với Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung tiếp tục leo thang với các mức thuế đang tạo ra những biến động lớn trong dòng chảy thương mại toàn cầu, đặc biệt là trong ngành thủy sản, bà Lê Hằng, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (Vasep) nhận định: “Với vị thế là quốc gia sản xuất và xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, Trung Quốc đang đối mặt với nguy cơ mất thị phần tại Mỹ, buộc họ phải chuyển hướng sang các thị trường khác”.
Theo đó, bà Lê Hằng phân tích, khi bị hạn chế tại Mỹ, Trung Quốc buộc phải tìm kiếm các điểm đến mới cho lượng thủy sản khổng lồ của mình như thị trường nội địa. Với dân số 1,4 tỷ người, Trung Quốc có thể đẩy mạnh tiêu thụ trong nước bằng cách giảm giá hoặc tăng cường phân phối qua các kênh nội địa.
Bên cạnh đó là các nước “Vành đai và Con đường”. Năm 2024, hơn 50% giá trị thương mại thủy sản Trung Quốc đến từ các quốc gia trong sáng kiến này, như Đông Nam Á, Ấn Độ, và một số nước châu Phi.
Nhật Bản, Hàn Quốc, EU cũng là những thị trường lớn truyền thống, nơi Trung Quốc có thể tăng xuất khẩu, đặc biệt là các sản phẩm cao cấp như tôm, cua.
Bên cạnh đó, không loại trừ khả năng thuỷ sản Trung Quốc được tái xuất qua nước thứ ba. Bà Hằng đánh giá, Trung Quốc có thể gửi thủy sản sang các nước khác trong khu vực để chế biến và gắn nhãn mới, nhằm né thuế Mỹ.
Ngoài ra, các thị trường mới nổi như các nước Nam Mỹ và Trung Đông cũng là lựa chọn tiềm năng để phân tán lượng hàng dư thừa.
Trước sự thay đổi này, Phó Tổng thư ký Vasep đánh giá, sự dịch chuyển của Trung Quốc làm thay đổi dòng chảy thương mại thủy sản. Giá nguyên liệu có thể biến động khi Trung Quốc giảm nhập khẩu. Các nhà cung cấp lớn như Ấn Độ, Ecuador và Việt Nam sẽ cạnh tranh khốc liệt hơn để chiếm thị phần tại Mỹ và EU.
Trong khi đó, tại châu Á, áp lực cạnh tranh gia tăng khi Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc và ASEAN – những thị trường quan trọng của Việt Nam, điều này được đánh giá có thể dẫn đến cuộc chiến giá cả, ảnh hưởng đến lợi nhuận của các nước xuất khẩu nhỏ hơn.
Trước thực trạng này, bà Lê Hằng đánh giá, sự suy giảm của Trung Quốc tại Mỹ mở ra cơ hội cho Việt Nam gia tăng thị phần. Với kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ khoảng 1,8-2 tỷ USD/năm, chiếm 20% tổng kim ngạch, Việt Nam có thể tận dụng nhu cầu ổn định từ người tiêu dùng Mỹ để đẩy mạnh xuất khẩu tôm và cá tra.
Tuy nhiên, đi kèm với cơ hội luôn là thách thức. Trung Quốc tăng xuất khẩu sang EU, Nhật Bản – những nơi Việt Nam chiếm 15-17% và 14-15% kim ngạch sẽ đồng thời tạo áp lực cạnh tranh lớn. Nguy cơ hàng Trung Quốc đội lốt “Made in Vietnam” để né thuế Mỹ cũng đe dọa uy tín và có thể dẫn đến thuế trừng phạt từ Mỹ.
Từ những nhận định trên, Phó Tổng thư ký Vasep khuyến nghị doanh nghiệp thủy sản cũng như cộng đồng trong chuỗi cung ứng cân nhắc kế hoạch tăng cường xuất khẩu sang Mỹ. Theo đó, tranh thủ giai đoạn 90 ngày thuế quan 10% đẩy mạnh xuất khẩu. “Nếu thuế có chiều hướng thuận lợi hơn, giai đoạn tới, có thể tập trung vào các sản phẩm chủ lực như tôm, cá tra, cá ngừ và chế biến giá trị gia tăng để lấp khoảng trống Trung Quốc để lại. Đàm phán với Mỹ để tránh thuế chống bán phá giá, cung cấp dữ liệu minh bạch về nguồn gốc và giá thành”, bà Lê Hằng lưu ý.
Đồng thời khuyến nghị doanh nghiệp tính tới phương án chuyển hướng và đa dạng thị trường, tránh phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Mỹ hoặc Trung Quốc. Đẩy mạnh xuất khẩu sang EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, qua các FTA (EVFTA, CPTPP, RCEP) để giảm phụ thuộc vào Mỹ. Ví dụ, tôm Việt Nam vào EU được miễn thuế, trong khi hàng Trung Quốc chịu 12-20%. Khai thác thị trường mới như Trung Đông, Nam Mỹ để phân tán rủi ro.
Các cơ quan quản lý và cộng đồng doanh nghiệp cũng cần chú trọng kiếm soát xuất xứ, minh bạch truy xuất nguồn để đảm bảo thủy sản xuất khẩu là 100% từ Việt Nam. Hợp tác với Mỹ để giám sát chuỗi cung ứng, tránh bị nghi ngờ lẩn tránh thuế.
Đặc biệt, nâng cao chất lượng và thương hiệu. Đầu tư vào công nghệ chế biến, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế (FDA, ASC, MSC) để tạo sự khác biệt với hàng Trung Quốc. Xây dựng thương hiệu “thủy sản Việt Nam” gắn với bền vững, sạch và minh bạch. Phát triển chuỗi cung ứng bền vững để giảm chi phí và tăng năng lực cạnh tranh.