Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân đã đặt ra yêu cầu phải thể chế hóa đầy đủ các quyền đối với “tài sản vô hình”.
Hưởng ứng tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, sáng ngày 11/9, Tạp chí Luật sư Việt Nam phối hợp cùng Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Công ty Luật TNHH Trương Anh Tú (TAT Law Firm) tổ chức Diễn đàn “Thể chế hoá đổi mới sáng tạo – Bảo vệ tài sản vô hình theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW”.
Tại Diễn đàn, nhiều ý kiến nhấn mạnh tầm quan trọng của việc coi tài sản vô hình, tài sản trí tuệ là nền tảng của nền kinh tế số, đồng thời kiến nghị xây dựng cơ chế pháp lý để thúc đẩy phát triển.
Luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law Firm nhấn mạnh rằng, Việt Nam đang bước vào thời đại mới, nơi tài sản vô hình như thương hiệu, dữ liệu, phần mềm, giải pháp kỹ thuật và thuật toán trở thành “mỏ vàng” thực sự của nền kinh tế.
Theo ông Tú, trong khi giá trị tài sản vô hình toàn cầu đã vượt mốc 80 nghìn tỷ USD, tại Việt Nam nhiều tổ chức, doanh nghiệp vẫn chưa chú trọng đúng mức tới việc định giá và bảo vệ đúng mức. Nguyên nhân không nằm ở sáng tạo, mà ở thể chế – chưa đủ mạnh để tài sản vô hình được định giá, giao dịch, thế chấp và trở thành tài sản ngang hàng chấp nhận.
Ông viện dẫn tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW, lần đầu tiên gọi đích danh “tài sản vô hình” là nguồn lực then chốt và yêu cầu thể chế hóa đầy đủ quyền sở hữu, quyền định giá và tài chính hóa đối với loại tài sản đặc biệt này. Đồng thời, Nghị quyết 57-NQ/TW nhấn mạnh vai trò thể chế như một lối ra căn bản trong bối cảnh, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Tuy nhiên, Luật sư Tú cũng chỉ ra ba rào cản chính còn tồn tại hiện nay. Cụ thể, pháp luật phân mảnh, ngân hàng chưa chấp nhận IP làm tài sản đảm bảo, cơ chế định giá và giao dịch bảo hiểm IP, và doanh nghiệp chưa sẵn sàng “tài sản hóa” ý tưởng. Từ đó, ông đề xuất ba trụ cột chính sách bao gồm ghi nhận quyền sở hữu trí tuệ là tài sản tài chính hóa được, có thể hạch toán, góp vốn, thế chấp; hình thành thị trường định giá – giao dịch IP, bao gồm trung tâm định giá quốc gia, sàn giao dịch IP và quỹ đầu tư mạo hiểm dựa trên IP và bảo vệ mạnh mẽ quyền sở hữu trí tuệ, kiện toàn toà án chuyên trách sở hữu trí tuệ, cơ chế thi hành án minh bạch và răn đe.
“Sáng tạo không được bảo vệ – cũng chỉ là một ý tưởng chờ bị đánh cắp. Tài sản vô hình là đất đai của nền kinh tế số. Nếu không làm chủ, chúng ta sẽ bị chiếm dụng”, Luật sư Trương Anh Tú
Liên quan đến cơ chế tài phán quốc gia về sở hữu trí tuệ, TS Phạm Minh Huyền, Phó Trưởng Bộ môn Luật Sở hữu trí tuệ, Trường Đại học Luật Hà Nội nhấn mạnh rằng việc thành lập Tòa Sở hữu trí tuệ ở Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW là bước tiến lớn, song cần được hoàn thiện để bảo đảm hiệu quả bảo vệ quyền sáng tạo.
Theo bà Huyền, mặc dù Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi 2025) và Nghị quyết 81/2025 đã cho phép thành lập Tòa Sở hữu trí tuệ tại Hà Nội và TPHCM, nhưng hiện vẫn tồn tại khoảng trống. Cụ thể, tòa chưa có thẩm quyền hình sự, chưa có tiêu chuẩn nhân sự rõ ràng, thiếu quy trình chuyên biệt trong giải quyết tranh chấp.
Từ kinh nghiệm quốc tế của các nước như Nhật Bản, Malaysia và Thái Lan – những nước đã thiết lập Tòa Sở hữu trí tuệ chuyên trách, hiệu quả xử lý nhanh chóng, chính xác và thống nhất – TS Huyền đề xuất Việt Nam cần bổ sung thẩm quyền hình sự cho Tòa Sở hữu trí tuệ, đồng thời quy định biên chế tối thiểu và đào tạo chuyên sâu cho thẩm phán, thư ký, thẩm tra viên. Đặc biệt cần xây dựng thủ tục rút gọn với vụ việc đơn giản và ứng dụng công nghệ thông tin trong tố tụng, kể cả xét xử trực tuyến với đương sự ở nước ngoài.
“Một cơ chế tài phán đầy đủ và chuyên nghiệp sẽ là chìa khóa bảo vệ quyền sáng tạo, khuyến khích đổi mới, đồng thời nâng cao uy tín quốc gia trên trường quốc tế”, TS Phạm Minh Huyền nhấn mạnh.
Thực tế, nhiều thương hiệu Việt đã và đang bị xâm phạm, từ Nhựa Bình Minh, Công ty bảo vệ Long Hải, gạo ST25. Điểm chung là doanh nghiệp phải gánh chịu thiệt hại lớn về thị phần, uy tín và cơ hội phát triển, trong khi việc xử lý vi phạm thường kéo dài nhiều năm, khiến “chiến thắng pháp lý” trở nên muộn màng.Các vụ việc trên cho thấy doanh nghiệp Việt dù có sáng tạo và uy tín thị trường vẫn có thể trở thành nạn nhân nếu cơ chế bảo hộ chậm và kém hiệu quả.
Tại Diễn đàn, nhiều ý kiến cũng chỉ ra nguyên nhân chính bao gồm mức xử phạt hành chính quá thấp, không đủ sức răn đe, khiến vi phạm trở thành “mô hình kinh doanh” có lợi, đặc biệt hơn 95% doanh nghiệp Việt là nhỏ và vừa, thiếu bộ phận pháp chế, thiếu nguồn lực theo đuổi kiện tụng, dẫn đến tâm lý buông xuôi.
Từ đó kiến nghị, cần áp dụng cơ chế bồi thường mang tính trừng phạt với hành vi xâm phạm nghiêm trọng để răn đe; thành lập hệ thống tòa án chuyên trách về sở hữu trí tuệ; mở rộng tổ chức giám định độc lập nhằm tránh tình trạng “nút cổ chai” kéo dài vụ việc, đồng thời thành lập Quỹ hỗ trợ pháp lý sở hữu trí tuệ để giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa có điều kiện theo đuổi các vụ kiện.