Từ hồ tiêu, cà phê tới thủy sản và gạo, các ngành xuất khẩu chủ lực đang mắc kẹt bởi bất cập VAT nguy cơ vốn bị treo, rủi ro gian lận tăng, cạnh tranh quốc tế suy yếu.
Chỉ ít tuần sau khi Luật Thuế GTGT mới có hiệu lực (1/7/2025), hàng loạt ngành xuất khẩu mũi nhọn đã đồng loạt kêu khó vì những điểm nghẽn phát sinh từ cơ chế thuế mới. Các hiệp hội như VPSA, VASEP và Hiệp hội Lương thực Việt Nam đã gửi văn bản khẩn kiến nghị Chính phủ và Bộ Tài chính tháo gỡ, vì cơ chế “nộp trước – hoàn sau” đang gây tắc vốn và tạo khe hở gian lận.
Với hồ tiêu, khoảng 2,5% sản lượng chịu thuế 5% chỉ thu được khoảng 55 tỷ đồng, nhưng phải hoàn tới 2.135 tỷ đồng VAT. Không chỉ hồ tiêu, cà phê với sản lượng xuất khẩu khoảng 1,6 triệu tấn/năm cũng cùng cảnh ngộ: vốn lưu động bị siết, doanh nghiệp phải tạm ứng thuế lớn rồi chờ hoàn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng xoay vòng vốn.
Ngành thủy sản xuất khẩu gần 9 tỷ USD mỗi năm cũng gặp khó vì thuế GTGT 5% áp với sản phẩm chỉ sơ chế. Ngân hàng không công nhận khoản thuế này làm tài sản đảm bảo vay vốn, khiến doanh nghiệp khó tiếp cận tín dụng. Gạo tuy được áp thuế xuất khẩu 0% nhưng vẫn phát sinh thuế đầu vào, kéo theo những vướng mắc trong thủ tục hoàn.
Tình trạng “thu ít – hoàn nhiều” này không chỉ khiến dòng vốn doanh nghiệp bị nghẽn mà còn tiềm ẩn nguy cơ gian lận, khi một số đối tượng có thể lợi dụng lập hồ sơ xuất khẩu khống để chiếm đoạt tiền hoàn thuế.
Theo ông Lê Việt Anh, Tổng Thư ký Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam (VPSA), với hơn 95% sản lượng hồ tiêu hướng đến xuất khẩu và chỉ khoảng 2,5% tiêu thụ nội địa, việc áp dụng thuế GTGT 5% rồi hoàn không phù hợp. “Chúng tôi kiến nghị áp dụng thuế GTGT 0% cho nguyên liệu đầu vào và thuế khoán 0,5% trên kim ngạch xuất khẩu, thay vì bắt doanh nghiệp tạm ứng rồi chờ hoàn thuế. Mô hình này giúp tiết kiệm dòng vốn, giảm chi phí hành chính và hạn chế rủi ro trục lợi trong hoàn thuế”, Tổng Thư ký VPSA nói.
Ông Việt Anh nhấn mạnh, cơ chế “nộp trước – hoàn sau” đang khiến nhiều doanh nghiệp hồ tiêu thiếu hụt vốn lưu động nghiêm trọng. Với quy mô xuất khẩu hàng trăm triệu USD, số thuế GTGT tạm đóng mỗi tháng có thể lên đến hàng trăm tỷ đồng, khiến dòng tiền bị “đóng băng” đúng lúc doanh nghiệp cần xoay vòng để thu mua nguyên liệu, ký hợp đồng mới. Chậm hoàn thuế không chỉ làm trễ kế hoạch sản xuất, mà còn khiến doanh nghiệp mất cơ hội chốt giá tốt và đáp ứng kịp đơn hàng quốc tế.
Tương tự, đại diện Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, cơ chế thuế GTGT hiện nay đang làm tăng chi phí tài chính và giảm sức cạnh tranh của thủy sản Việt so với các đối thủ trong khu vực. “Chúng tôi kiến nghị đưa thủy sản chưa qua chế biến trở lại diện không phải kê khai thuế GTGT, đồng thời cần có hướng dẫn thống nhất, đẩy nhanh hoàn thuế để giữ sức cạnh tranh cho ngành”, đại diện VASEP chia sẻ.
Theo VASEP, doanh nghiệp thủy sản hiện chịu hai mức thuế suất GTGT khác nhau cho cùng một loại hàng hóa, tùy cách phân loại sản phẩm. Điều này gây ra sự lúng túng trong kê khai và tiềm ẩn nguy cơ bị truy thu nếu cơ quan thuế xác định lại mã. Với hàng xuất khẩu chưa qua chế biến, việc áp thuế GTGT 5% làm tăng đáng kể chi phí tài chính, vì doanh nghiệp phải ứng trước một khoản thuế lớn mà không thể dùng khoản này làm tài sản đảm bảo vay vốn.
Hệ quả là nhiều doanh nghiệp thủy sản mất hợp đồng xuất khẩu vào tay đối thủ ở Ấn Độ, Thái Lan, những nước có quy trình thuế đơn giản hơn. Thủ tục hoàn thuế kéo dài hàng tháng, thậm chí hàng quý, càng khiến doanh nghiệp khó duy trì chuỗi cung ứng và đảm bảo tiến độ giao hàng.
Trao đổi với Diễn đàn Doanh nghiệp dưới góc nhìn pháp lý, luật sư Nguyễn Đức Biên – Giám đốc Công ty Luật TNHH Đại La nhận định, chính sách thuế GTGT mới, dù nhằm chống gian lận và tiệm cận chuẩn quốc tế, nhưng đang tạo áp lực quá lớn cho các ngành xuất khẩu tỷ đô.
Ông phân tích, bản chất hàng xuất khẩu không chịu thuế GTGT. Việc bắt doanh nghiệp đóng trước, rồi chờ hoàn, không chỉ “trói” dòng vốn lưu động mà còn khiến nhiều hợp đồng xuất khẩu bị chậm hoặc bỏ lỡ vì mất lợi thế về giá và thời gian giao hàng. Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế gay gắt, điều này chẳng khác nào tự làm suy yếu doanh nghiệp Việt ngay trên sân nhà.
Theo luật sư Nguyễn Đức Biên, giải pháp căn cơ là xây dựng cơ chế thuế riêng cho nhóm ngành xuất khẩu chủ lực, hoặc áp dụng thuế 0% ngay từ đầu vào, hoặc thuế khoán hợp lý, đồng thời kết hợp kiểm soát chặt đầu ra để chống gian lận. “Cách tiếp cận này vừa bảo đảm nguồn thu ngân sách, vừa giải phóng dòng vốn cho doanh nghiệp, giúp họ duy trì sức cạnh tranh dài hạn”, vị luật sư nói.