Thu hẹp phạm vi áp dụng thuế suất thuế GTGT: Nỗi lo của doanh nghiệp

THY HẰNG thực hiện 25/03/2024 01:03

Việc giới hạn phạm vi loại hình dịch vụ xuất khẩu hưởng thuế GTGT 0% khiến doanh nghiệp gặp khó, ảnh hưởng sức hấp dẫn môi trường đầu tư.

Đồng thời tác động trực tiếp đến chi phí và vận hành của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.

>>Bộ Tài chính nói gì về kiến nghị hoàn thuế GTGT của doanh nghiệp thuỷ sản?

Trao đổi với DĐDN, ông Bùi Ngọc Tuấn, Phó Tổng Giám đốc Deloitte Việt Nam nhận định, Dự thảo Luật Thuế GTGT (sửa đổi) đã đề xuất nhiều nội dung sửa đổi sát với vướng mắc thực tiễn, tuy nhiên cũng khiến nhiều doanh nghiệp băn khoăn, lo lắng nếu những đề xuất sửa đổi hiện nay được Quốc hội thông qua và thực thi trong thời gian tới.

- Ông có thể nêu cụ thể hơn?

Tôi lấy ví dụ về đề xuất thu hẹp phạm vi áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% với dịch vụ xuất khẩu tại Dự thảo Luật Thuế GTGT (sửa đổi), mặc dù thực tiễn áp dụng thuế GTGT 0% cho dịch vụ xuất khẩu có thể còn nhiều vướng mắc, nhưng Deloitte Việt Nam cho rằng Quốc hội và Bộ Tài chính cần đánh giá tác động tổng thể và tham khảo kinh nghiệm và thông lệ quốc tế trước khi quyết định vấn đề này.

Dự thảo luật thuế GTGT sửa đổi đã giới hạn phạm vi và chỉ liệt kê một số loại hình dịch vụ xuất khẩu hưởng thuế GTGT 0% là dịch vụ cung cấp cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, gồm: Dịch vụ cho thuê phương tiện vận tải được sử dụng ngoài phạm vi lãnh thổ Việt Nam; Dịch vụ vận tải quốc tế; Dịch vụ của ngành hàng không, hàng hải cung ứng trực tiếp cho vận tải quốc tế.

Việc giới hạn phạm vi nêu trên đồng thời cũng làm thay đổi chính sách quản lý thuế GTGT và hải quan đối với doanh nghiệp nội địa cung cấp dịch vụ cho nước ngoài bao gồm trường hợp dịch vụ gắn với hàng hóa xuất khẩu và cung cấp cho doanh nghiệp chế xuất (DNCX) là khu phi thuế quan. Theo đó, thuế suất thuế GTGT cho các trường hợp này tăng từ 0% đối với dịch vụ xuất khẩu thành 5%/10% như dịch vụ kinh doanh thông thường.

Doanh nghiệp nội địa phát sinh thêm thuế GTGT phải nộp đối với hoạt động cung ứng dịch vụ ra nước ngoài và/hoặc cho DNCX, đồng thời DNCX phải ghi nhận thuế GTGT đầu vào phát sinh vào chi phí trong kỳ, làm tăng giá thành sản phẩm của doanh nghiệp và giảm sức cạnh tranh cho cả chuỗi cung ứng của Việt Nam vì sản phẩm cuối cùng của DNCX thường được xuất khẩu ra nước ngoài.

Với thực tiễn đã áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% cho dịch vụ xuất khẩu nhiều năm nay, việc thay đổi có thể cũng làm ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của môi trường đầu tư, và tác động trực tiếp đến chi phí và vận hành của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế còn đang dự đoán có nhiều khó khăn như hiện nay.

p/Doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ công nghệ... sẽ gặp khó khi các đề xuất sửa đổi Luật Thuế GTGT được thông qua.

Doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ công nghệ... sẽ gặp khó khi các đề xuất sửa đổi Luật Thuế GTGT được thông qua.

- Các khó khăn nào sẽ phát sinh trong thực tiễn khi doanh nghiệp áp dụng thuế suất 0% đối với dịch vụ xuất khẩu nói trên, thưa ông?

Luật thuế GTGT hiện hành và các văn bản hướng dẫn quy định điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu bao gồm: Có hóa đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu; hợp đồng ký kết với bên nước ngoài về việc bán, gia công hàng hóa, cung ứng dịch vụ; hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ; chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt; tờ khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào các chứng từ nêu trên thì nhiều trường hợp cơ quan thuế cho rằng chưa đủ cơ sở để xác định hàng hóa đó có thực sự được xuất khẩu ra nước ngoài hay không.

Bên cạnh đó, Luật thuế GTGT chưa có quy định rõ ràng về việc xác định dịch vụ xuất khẩu. Do dịch vụ có tính vô hình, nên rất khó xác định một số loại dịch vụ được tiêu dùng tại Việt Nam hay ở nước ngoài, gây vướng mắc, tranh cãi cho cả cơ quan thuế và người nộp thuế trong việc đánh giá, chứng minh dịch vụ như thế nào được xem là “tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt Nam”.

Trong quá trình thực hiện, chúng tôi cũng quan sát nhiều trường hợp doanh nghiệp đã xuất hóa đơn cung cấp dịch vụ cho khách hàng với thuế suất 0% do xác định là tiêu dùng ngoài Việt Nam sau đó lại bị cơ quan kiểm toán, cơ quan thuế cho rằng đây là dịch vụ tiêu dùng tại Việt Nam và thực hiện truy thu thuế GTGT 10%. Việc truy thu này gây khó khăn cho bên cung cấp dịch vụ do phải nộp thêm thuế mà không đòi được bên mua dịch vụ do hợp đồng đã ký và việc thanh toán đã kết thúc. Doanh nghiệp cũng gặp khó khăn khi thực hiện hoặc thêm nghĩa vụ chứng minh, giải trình, và trong một số trường hợp phát sinh thêm chi phí thuế, giảm sức cạnh tranh.

>>Đề xuất áp thuế GTGT 5% với phân bón: Doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh

- Vậy theo ông, các vấn đề này nên được giải quyết như thế nào?

Vướng mắc hiện nay như tôi đã nêu ở trên cần xem xét thận trọng để điều chỉnh quy định phù hợp tại Dự thảo Luật Thuế GTGT (sửa đổi), đảm bảo hài hòa từ cả góc độ quản lý thuế và chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.

Do đó, Deloitte cũng đã kiến nghị UBTVQH đánh giá kỹ tác động kinh tế của việc thu hẹp đối tượng dịch vụ được xác định là dịch vụ xuất khẩu như trên để đảm bảo chính sách thuế GTGT được sửa đổi một cách toàn diện nhưng không gây xáo trộn tình hình đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần ổn định kinh tế-xã hội.

- Trân trọng cảm ơn ông!

Có thể bạn quan tâm

  • Bộ Tài chính nói gì về kiến nghị hoàn thuế GTGT của doanh nghiệp thuỷ sản?

    02:00, 27/02/2024

  • Sửa đổi Luật Thuế GTGT: Chuyển mặt hàng phân bón sang đối tượng chịu thuế GTGT

    15:13, 16/01/2024

  • Đề xuất áp thuế GTGT 5% với phân bón: Doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh

    13:59, 09/01/2024

  • Hoàn thuế GTGT: Nhiều doanh nghiệp tiếp tục phải đợi chờ, chưa có hồi kết

    05:11, 25/11/2023

  • Chậm hoàn thuế GTGT: Doanh nghiệp có thể bị phá sản bất cứ lúc nào

    00:42, 29/08/2023

  • Sửa Luật Thuế GTGT: Phải công bằng với hàng hóa trong nước

    03:20, 17/08/2023

(0) Bình luận
Nổi bật
Mới nhất
Thu hẹp phạm vi áp dụng thuế suất thuế GTGT: Nỗi lo của doanh nghiệp
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO