Việt Nam cần xem xét điều chỉnh tỷ giá, đồng thời không nên nhiệt tình với RCEP. Đặc biệt, cần tăng cường biện pháp ngăn tác động xấu từ FDI và thương mại từ Trung Quốc.
Đó là khẳng định của Chuyên gia Bùi Ngọc Sơn, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới tại Diễn đàn kinh tế 2020: “Tích luỹ động năng cho chu kỳ tăng trưởng mới” do Báo Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức dưới sự chỉ đạo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chiều ngày 5/12 tại Hà Nội.
Tác động từ những nền kinh tế chủ chốt
Cụ thể, kinh tế Mỹ vẫn có triển vọng tốt khi mức việc làm vẫn cao khi tỷ lệ thất nghiệp tháng Mười 2019 rất thấp ở mức 3,6% so với mức thấp kỷ lục 3,5% trong tháng Chín 2019. Tiêu dùng cá nhân tốt khi mức bán lẻ trong năm 2019 triển vọng duy trì tăng trưởng hàng tháng 0,4% cho cả năm (dự báo) là mức trên trung bình trong lịch sử. Tiêu dùng cá nhân là chỉ số quan trọng cho thấy sức khỏe của nền kinh tế Mỹ vì tiêu dùng cá nhân giải thích 72% GDP của nước này.
Trong khi đó, kinh tế EU cho thấy dấu hiệu ổn định trong năm 2019 khi tăng trưởng GDP đi ngang ở mức 1,2%/năm bất chấp những bất ổn từ Brexit và xung đột thương mại với Mỹ. Đầu năm có nhiều lo ngại EU rơi vào suy thoái nhưng điều này không xảy ra. Nguyên nhân giải thích sự chắc chắn ở EU là thị trường lao động khá tốt, mức thất nghiệp hiện ở dưới mức trước khủng hoảng và tiền lương vẫn tăng, tăng trưởng GDP thực tế cả năm 2019 dự báo ơ mức 1.1% và năm 2020 là 1,2%. Tuy nhiên, số liệu tăng trưởng đến hết quí III/2019 cho thấy các dự báo trên là thấp hơn thực tế.
Cũng theo Chuyên gia Bùi Ngọc Sơn, kinh tế Trung Quốc dù gặp nhiều thách thức nhưng vẫn tạm ổn định trong ngắn hạn. “Tăng trưởng cả năm 2019 dự báo ở mức 6% và năm 2020 là 5,8%”, ông Sơn nói.
Vì những yếu tố trên, dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2019 là đáy của giai đoạn giảm sút từ năm 2017 và năm 2020 tăng trưởng sẽ tăng trở lại. “Dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2019 là 3,1% và sang năm 2020 là 3,4%”, Chuyên gia Bùi Ngọc Sơn nhận định.
Về Brexit, Chuyên gia Bùi Ngọc Sơn cho biết, tác động từ Brexit đến sự tăng trưởng của EU, Anh Quốc và thế giới là không lớn.
Trong khi đó, khả năng xảy ra khủng hoảng tài chính là rất thấp. Theo đó, nợ trên toàn cầu tăng nhanh và lên mức cao kỷ lục vào giữa năm 2019 ở mức 250 nghìn tỷ Đôla, dự báo hết năm 2019 sẽ ở mức 255 nghìn tỷ Đôla, lớn gấp 3,2 lần GDP toàn cầu. Đặc biệt nợ công ty rất cao do họ đua vay nợ vì lãi suất quá thấp gây nhiều lo ngại rủi ro vỡ nợ và khủng hoảng tài chính toàn cầu.
“Tuy nhiên, trong ngắn hạn chưa có dấu hiệu một biến cố khủng hoảng tài chính. Cuộc kiểm tra sức khỏe khu vực tài chính gần đây cho thấy khu vực này vẫn trong trạng thái tốt, dù có biến động thì các định chế tài chính vẫn đủ sức chịu đựng”, Chuyên gia Bùi Ngọc Sơn nói. Đồng thời cho rằng, nguy cơ xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính trong năm 2020 như hồi đầu năm là rất thấp, không đáng lo ngại.
Bên cạnh đó, chuyên gia Bùi Ngọc Sơn cũng đưa ra những nhận định về kinh tế Trung Quốc. Theo đó, nền kinh tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng chậm lại vì những tiềm năng của mô hình tăng trưởng dựa vào tín dụng, tài nguyên và lao động rẻ đã cạn kiệt; trong khi đó lại phải đối mặt với nhiều rủi ro tích lũy sau thời kỳ tăng trưởng nóng kéo dài.
Chuyên gia Bùi Ngọc Sơn đánh giá: "Rủi ro lớn nhất từ nền kinh tế này là tình trạng vỡ nợ trong nền kinh tế này, từ đó gây chấn động và thậm chí khủng hoảng hệ thống tài chính, và cả nền kinh tế toàn cầu trong tương lai gần".
Tuy nhiên, khả năng này là rất thấp vì, thứ nhất, nợ trong nền kinh tế chủ yếu là nợ công ty thuộc sở hữu nhà nước và chủ nợ là các ngân hàng cũng sở hữu nhà nước. Thứ hai, chiến dịch kiểm soát hoạt động ngân hàng ngầm được cho là nguồn rủi ro lớn ít nhiều có kết quả tốt. Thứ ba, chính phủ và ngân hàng trung ương vẫn còn nhiều dư địa chính sách để kích thích nền kinh tế.
Xáo trộn vì chiến tranh thương mại
Đặc biệt, phân tích về tác động từ chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, chuyên gia Bùi Ngọc Sơn đánh giá đây là tâm điểm, có nhiều tác động.
Cụ thể, bản chất của cuộc đối đầu này là không chỉ vì lợi ích kinh tế mà còn, và chủ yếu, là sự tranh giành địa vị chính trị toàn cầu. “Nó đụng chạm đến những lợi ích và cấu trúc cốt lõi của hai hệ thống. Chẳng hạn, sự tồn tại của hệ thống doanh nghiệp nhà nước và sự trợ cấp từ nhà nước cho những doanh nghiệp này là không thể chấp nhận với Mỹ, nhưng việc xóa bỏ nó lại không thể đối với Trung Quốc”, Chuyên gia Bùi Ngọc Sơn nói.
Do đó, ông Sơn cho rằng, không thể có những thay đổi hay nhượng bộ nào đáng kể trong thời gian ngắn. Kể cả bầu cử Mỹ thế nào thì không thay đổi gì. Dự báo cuộc xung đột này sẽ phải kéo dài vài thập kỷ và là nguyên nhân định hình lại nền kinh tế và chính trị thế giới trong tương lai.
Đặc biệt, đàm phán sẽ kéo dài, sẽ khó có thỏa thuận nào có ý nghĩa cho đến bầu cử ở Mỹ trong 2020. Những động thái hiện nay chỉ mang tính chiến thuật, chờ đợi, và những hành động kiểu này đã và sẽ gây những biến động và bất ổn cho kinh tế toàn cầu.
“Tuy nhiên, tác động toàn cầu chỉ mang tính chất gây xáo trộn, thay đổi, chứ không phải mang tính hủy hoại”, ông Sơn nói.
Triển vọng đầu tư giảm nhanh
Theo chuyên gia Bùi ngọc Sơn, chúng ta có kỳ vọng rằng Việt Nam trở thành nơi thu hút dòng FDI dịch chuyển từ Trung Quốc sang và sẽ được hưởng lợi từ điều này. Nhưng cũng đúng như nhận định đầu năm là lợi ích từ hướng này là không lớn.
Cụ thể, tình hình hai tháng 10 và 11/2019 cho thấy dòng FDI về cuối năm giảm mạnh, nhưng Trung Quốc lại trở thành nhà đầu tư đứng đầu. Đầu tư từ Hồng Kong tăng 3,9 lần còn từ Trung Quốc tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ 2018. Trong 11 tháng đầu năm 2019 so với cùng kỳ năm 2018: số dự án mới tăng nhưng số vốn lại giảm 7%; còn số dự án điều chỉnh vốn cũng tăng nhưng số vốn lại giảm 10,7%.
Nhiều dấu hiệu cho thấy, dòng FDI vào từ các nhà đầu tư phương Tây dịch chuyển từ Trung Quốc sang nhằm tránh chiến tranh thương mại Mỹ-Trung như dự báo ban đầu tăng không nhiều. “Lý do vì Việt Nam chưa có ngành công nghiệp hỗ trợ đủ mạnh, cơ sở hạ tầng kém, logistics yếu và chi phí cao”, Chuyên gia Bùi Ngọc Sơn nói.
Có thể bạn quan tâm
14:19, 05/12/2019
14:14, 05/12/2019
Trong khi đó, dòng FDI của Trung Quốc lại tăng mạnh. “Đây không phải là chỉ dấu tốt với những nguy cơ về đội lốt hàng Việt, thôn tính thương hiệu Việt rồi xuất khẩu hoặc tiêu thụ tại thị trường Việt Nam”, ông Sơn cho biết.
Biểu hiện ở số vốn đổ vào mua cổ phần hay góp vốn tăng mạnh hơn dòng khác, dòng vốn này tăng áp đảo với 47,1% so với năm 2018 và chiếm tới 35,4% tổng dòng FDI vào tính đến 20/11/2019. Đồng thời, các dự án nhỏ là chủ yếu, thiếu vắng dự án qui mô lớn.
“Tóm lại có dấu hiệu dòng vốn mà Việt Nam kỳ vọng từ phương Tây lại không nhiều, trong khi dòng vốn từ Trung Quốc ít đem lại lợi ích lại gia tăng”, ông Sơn nhìn nhận.
Thương mại trong thế “kẹt”
Nói về những tác động của biến động kinh tế thế giới đến thương mại Việt Nam, ông Sơn phân tích, tỷ giá VND/USD giảm 0,2%, nghĩa là đồng VND lên giá, từ đầu năm, trong khi tỷ giá NDT/USD lại tăng tới 4,6%, nghĩa là đồng tiền này giảm giá, trong cùng kỳ. Điều này khiến hàng Trung Quốc lại càng rẻ hơn so với hàng Việt Nam tới gần 5% trong vòng 11 tháng qua.
"Đồng Việt Nam chịu sức ép lên giá vì dòng vốn nước ngoài sang Việt Nam tránh bão chiến tranh thương mại với Mỹ. Còn đồng NDT mất giá vì sự điều chỉnh có ý đồ nhằm chống lại áp lực chiến tranh thương mại với Mỹ", ông Sơn đánh giá.
Theo chuyên gia Bùi Ngọc Sơn, điều này đang gây bất lợi cho cạnh tranh của hàng Việt với hàng Trung Quốc ngay tại Việt Nam. Đó là lý do giải thích tại sao nhiều chuỗi bán lẻ mọc lên khi có thương chiến Mỹ-Trung và nhiều trong số đó bị phát hiện là hàng Trung Quốc chứ không phải hàng Việt.
Cũng theo vị chuyên gia, tình trạng hàng nhập từ Trung Quốc tăng mạnh. Quan trọng hàng đóng mác Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc cho thấy ngành dệt may Việt Nam và nhiều ngành khác nữa đang bị hàng Trung Quốc đội lốt cạnh tranh tại sân nhà và hàng Việt không thể cạnh tranh được vì hàng Trung Quốc có công nghệ tốt, nắm nguyên liệu trong tay, lại được hỗ trợ từ tỷ giá có lợi.
“Mối quan hệ thương mại kiểu này đang triệt thoái thương hiệu Việt sau hơn 30 năm hội nhập”, ông Sơn nói.
Mặt khác, trong thương mại với Mỹ thì Việt Nam bị “mắc kẹt” trong xung đột giữa Mỹ và Trung Quốc. Đó là vì Việt Nam dễ bị lợi dụng đội lốt để tránh thuế xuất sang Mỹ. Tình trạng đã xảy ra với ngành gỗ, sắt thép, nhôm và dệt may.
“Cần lưu ý khi Tổng thống Donal Trump có nhiều bình luận tiêu cực về Việt Nam là một nước xuất siêu sang Mỹ và lợi dụng Mỹ và cả việc tiếp tay cho Trung Quốc”, Chuyên gia Bùi Ngọc Sơn lưu ý.
Thêm vào đó, dòng FDI Trung Quốc và hàng hóa Trung Quốc đội lốt hàng Việt còn có khả năng lợi dụng vị thế của Việt Nam trong các hiệp ước thương mại song phương với các đối tác khác. Điều này có thể gây tai hại cho danh tiếng hàng Việt Nam trong các khối hội nhập này.
Do đó, ông Sơn cho rằng, năm 2020 là năm có triển vọng tăng trưởng tốt hơn năm 2019, các biến động lớn tiêu cực ít có khả năng xảy ra.
Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung vẫn là tâm điểm và gây nhiều tác động đến kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên đó chỉ là những tác động xáo trộn, thay đổi chứ không gây tác động hủy hoại.
Việt Nam bị tác động mạnh từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung. Lợi ích từ dòng FDI từ Trung Quốc sang không như mong muốn, thậm chí có nhiều dấu hiệu bất lợi. Trong khi đó, dòng thương mại từ Trung Quốc đang trở thành gánh nặng. Có thể bị lợi dụng vị thế trong các hiệp ước với các nước và khu vực khác.
“Do đó, Việt Nam cần xem xét điều chỉnh tỷ giá, đồng thời không nên nhiệt tình với RCEP. Đặc biệt, cần tăng cường biện pháp ngăn tác động xấu từ FDI và thương mại từ Trung Quốc”, ông Sơn kiến nghị. Đồng thời cho rằng cần cải cách mạnh mẽ vấn đề thể chế, chủ thuyết, học thuyết, lý thuyết cũng là tư duy là con đường để phát triển, không thể làm ngược.