Sáng 20/12, Vòng Chung kết Chương trình Phát triển dự án khởi nghiệp Quốc gia năm 2025, hoạt động nằm trong khuôn khổ Chương trình Khởi nghiệp Quốc gia năm 2025 đã diễn ra tại Hà Nội.
Chương trình Khởi nghiệp Quốc gia do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) triển khai, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức từ năm 2002. Chương trình đã nhận được sự hỗ trợ tích cực của các bộ, ban ngành cùng các địa phương, các trường đại học/cao đẳng và cộng đồng khởi nghiệp trên toàn quốc.
Chương trình đã giúp các dự án khởi nghiệp có nhiều cơ hội tiếp cận kiến thức kinh doanh mới, kết nối với các cố vấn khởi nghiệp, các huấn luyện viên giàu kinh nghiệm, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, giúp các dự án, doanh nghiệp khởi nghiệp ngày càng phát triển. Tất cả đều hướng đến mục tiêu góp phần hiện thực hóa mục tiêu có 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030 theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân ban hành ngày 4/5/2025.
Tất cả đều hướng đến mục tiêu góp phần hiện thực hóa mục tiêu có 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030 theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân ban hành ngày 4/5/2025. Đặc biệt, thời gian qua, nhiều dự án của Chương trình Khởi nghiệp Quốc gia đã góp mặt ở các cuộc thi và triển lãm quốc tế tại nhiều quốc gia khác nhau, đây là cơ hội tốt để các dự án được mở rộng hợp tác, trao đổi kinh nghiệm và tìm kiếm nguồn lực hỗ trợ....
Một số ví dụ các dự án đã chạm tay đến các cuộc thi và triển lãm quốc tế như: Quán quân Chương trình phát triển dự án Khởi nghiệp Quốc gia năm 2024 - Dự án “Sa kê toàn cầu đã đại diện cho startup Việt Nam tham dự Cuộc thi Cúp Khởi nghiệp Toàn cầu khu vực - EWC Indo – Pacific vào tháng 6 vừa qua. Á quân của năm 2024: Green Choice – Bộ sản phẩm tuần hoàn từ sầu riêng đã được nhận Giải thưởng Expand North Star 2025 và đại diện cho Việt Nam tham dự sự kiện tại Singapore vào tháng 4/2025. Dự án đạt giải Ba: 5Sao – Ứng dụng kết nối ngành xây dựng, chăm sóc nhà, sửa chữa vặt, gọi thợ thầu đã nhận được Giải thưởng North Star Asia 2025 và đã đại diện cho Việt Nam tham gia sự kiện tại Dubai vào tháng 10/2025.
Năm 2026, dự án nào sẽ là đại diện cho Việt Nam đi ra đấu trường quốc tế, đưa tên mình vào bản đồ khởi nghiệp thế giới thì vòng chung kết ngày hôm nay sẽ là bệ phóng cho các bạn thanh niên, sinh viên.

Ban Giám khảo vòng Chung kết gồm 08 thành viên, bên cạnh những cố vấn và chuyên gia cao cấp về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong Hội đồng Cố vấn Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo Quốc gia, cũng có sự tham gia và đồng hành tận tâm của của các doanh nhân lớn, thực chiến và dày dặn kinh nghiệm. Họ cũng đã từng là startup như các bạn ở đây và bây giờ họ là những doanh nhân thành công.

Hội đồng Giám khảo gồm: Ông Đàm Quang Thắng - Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Khởi nghiệp ĐMST Quốc gia; Ông Trần Trí Dũng - Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Cố vấn Khởi nghiệp ĐMST Quốc gia - VSMA; Ông Trần Văn Lê - Chủ tịch Tập đoàn Phương Linh; Ông Nguyễn Đình Tùng - Tổng Giám đốc Công ty Vina T&T Group; Ông Vũ Thanh Thắng - Chủ tịch Công ty cổ phần AIZ; Ông Lê Đức Thuấn - Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Tập đoàn Đầu tư Bảo Ngọc.
Các dự án tham gia thuyết trình chính là các dự án thuộc TOP 10 dự án xuất sắc nhất của Chương trình Phát triển dự án khởi nghiệp Quốc gia năm 2025 gồm: 1. Sản xuất, chế biến, thương mại nấm ăn và nấm dược liệu dưới mái pin năng lượng mặt trời; 2. BIOQ - Mỹ phẩm thuần chay từ vỏ Thanh Long; 3. Sản xuất và thương mại hoá mực viết, màu vẽ từ phụ phẩm rau củ quả - màu thực vật Blink; 4. Giải pháp giáo dục trực tuyến (khoá VACT); 5. Trà Lam Tà Xùa - Sản vật giao thoa đất trời; 6. BioWraps - Tái sinh vỏ cam, Giải pháp bao bì sinh học bền vững; 7. Giải pháp tối ưu quản lý theo thời gian thực checknow; 8. Làng mướp; 9. HCM Health Hub; 10. Trà thảo mộc Sammax.


Ông Đàm Quang Thắng - Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo Quốc gia cho biết, Chương trình Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Quốc gia đã trải qua 22 năm đồng hành cùng hàng ngàn dự án khởi nghiệp, trong đó có nhiều dự án từ chương trình đã đạt được doanh thu lớn và đạt được nhiều giải thưởng quốc tế. Điều lớn nhất mà các dự án khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp có được thông qua chương trình là có được vốn xã hội.

Cụ thể, theo ông Thắng, trong hành trình khởi nghiệp, chúng ta cần rất nhiều thứ, chúng ta cần có con người, cần có năng lực để hiểu về các vấn đề của thị trường, cần kỹ năng để thuyết trình – trình bày với Ban giám khảo… Và từ vốn con người, chúng ta có vốn xã hội (biết được nhiều người các cố vấn, chuyên gia, các doanh nhân…) thông qua phản biện của Hội đồng Ban giám khảo. Lớn hơn nữa là chúng ta biết chúng ta cần gì cho dự án khởi nghiệp của mình.
“Trong hành trình xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp, chúng tôi luôn luôn đặt văn hóa khởi nghiệp lên hàng đầu, làm sao để chúng ta có văn hóa khởi nghiệp đúng và đủ. Từ đó để doanh nghiệp nhìn nhận rõ về việc muốn cái gì, cần tìm nguồn lực ở đâu,… " - ông Thắng nói và nhấn mạnh “10 dự án tham gia thuyết trình ngày hôm nay đều có năng lực, sự chênh lệch không quá lớn. Vì vậy, trong chương trình ngày hôm nay chúng ta cần thể hiện rõ những năng lực của mình để làm sao thuyết phục được Hội đồng Ban giám khảo”.
Dự án Sản xuất và thương mại hoá mực viết, màu vẽ từ phụ phẩm rau củ quả - màu thực vật BINKS hướng tới xây dựng thương hiệu gắn với giáo dục xanh.

Theo đại diện dự án, sản phẩm hiện đạt đặc tính khô nhanh gấp 6 lần màu nước thông thường, hạn chế lem nhoè, dễ rửa sạch, thân thiện với da tay trẻ em và không chứa kim loại nặng hay các thành phần độc hại thường thấy ở phân khúc giá rẻ. Điều này cho phép trẻ em tự do sáng tạo, còn phụ huynh và nhà trường yên tâm về yếu tố sức khỏe.
BINKS hướng tới xây dựng thương hiệu gắn với giáo dục xanh, biến màu vẽ từ phụ phẩm nông nghiệp thành công cụ giúp trẻ em tiếp cận sớm tư duy kinh tế tuần hoàn và lối sống bền vững thông qua hoạt động học tập hằng ngày. Dự án ghi nhận những tín hiệu tích cực từ thị trường với sản lượng phân phối và mức độ nhận diện thương hiệu tăng nhanh, cho thấy nhu cầu rõ rệt đối với dòng “màu vẽ xanh”.
Trong quá trình phát triển, BINKS liên tục đạt nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế, sản phẩm được kiểm định an toàn cho trẻ em và có tiềm năng ứng dụng rộng rãi trong nhà trường. Song song đó, dự án đang chuẩn hóa thương hiệu, bao bì và nội dung theo tiêu chuẩn xuất khẩu, xây dựng mạng lưới hơn 50 đối tác để hoàn thiện chuỗi giá trị khép kín và hướng tới mục tiêu trở thành thương hiệu dẫn đầu về giải pháp màu vẽ xanh tại Việt Nam.Sau phần thuyết trình, Ban giám khảo đã tập trung đặt câu hỏi về tính an toàn, khả năng kiểm soát chất lượng nguyên liệu cũng như năng lực mở rộng quy mô của dự án.
Ông Đàm Quang Thắng, Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo Quốc gia cho rằng việc thu gom phụ phẩm nông nghiệp và phế thải thực phẩm tiềm ẩn rủi ro về chất lượng và an toàn. Ông đặt vấn đề: nguyên liệu có nguồn gốc tự nhiên sẽ liên quan trực tiếp đến bảo quản, ổn định chất lượng và kiểm soát an toàn sinh học, vậy dự án có giải pháp nào để tối ưu? Bên cạnh đó, ông cũng băn khoăn liệu câu chuyện “an toàn – thân thiện” của sản phẩm có đang thiên về yếu tố cảm xúc hay không, đồng thời đặt câu hỏi về lựa chọn thị trường mục tiêu và giải pháp bao bì trong bối cảnh một sản phẩm xanh nhưng bao bì chưa thực sự thân thiện với môi trường.



Ở góc độ thị trường và sản xuất quy mô lớn, đại diện Ban Giám khảo cho rằng nguyên liệu của dự án phân tán ở nhiều nơi, gây khó khăn cho logistics và thu gom. Câu hỏi được đặt ra là cách BINKS giải quyết bài toán này, đồng thời đề nghị làm rõ định hướng công nghiệp hóa sản phẩm nếu hướng tới xuất khẩu. Ngoài ra, với doanh thu hiện còn khiêm tốn, dự án cần cho thấy phương án tăng trưởng rõ ràng trong giai đoạn tới.

Trả lời Ban giám khảo, đại diện BINKS cho biết doanh thu của dự án đạt 338 triệu đồng trong giai đoạn từ tháng 1/2025 đến ngày 15/12/2025, ngay trong năm đầu thương mại hóa. Dự án đã được chứng nhận là doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và đang trong lộ trình hoàn tất thủ tục để được công nhận là doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Về chi phí và giá thành, đại diện dự án cho biết BINKS kết nối trực tiếp với các chợ đầu mối, đối tác B2B và đơn vị thu gom, giúp chi phí nguyên liệu đầu vào gần như bằng 0 do tận dụng phụ phẩm nông nghiệp. Nhờ quy trình tinh gọn, dự án hòa vốn sau khoảng 2 tháng kể từ thời điểm bắt đầu phân phối vào tháng 12/2023; ngay sau đó đã xuất hiện các đơn hàng lớn, tạo dòng doanh thu ổn định.
.jpg)
Đối với vấn đề chất lượng nguyên liệu và an toàn sản phẩm, BINKS cho biết phụ phẩm sau khi thu thập được tái chế, phân loại và xử lý theo quy trình khép kín trong vòng 4–6 giờ, đảm bảo kiểm soát rủi ro từ đầu vào. Sản phẩm cuối cùng có thời hạn sử dụng lên tới 2 năm, đã trải qua quá trình kiểm định và chứng nhận trước khi đưa ra thị trường. Theo đại diện dự án, do nguyên liệu đầu vào tiềm ẩn nhiều rủi ro, BINKS đã dành phần lớn thời gian cho nghiên cứu để đảm bảo sản phẩm đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn chất lượng và an toàn sinh học, kể cả khi mở rộng sang thị trường quốc tế.



Liên quan đến logistics và nguồn cung, đại diện BINKS thừa nhận giai đoạn đầu gặp nhiều khó khăn do nguyên liệu phân tán, song đến nay hệ thống đã dần ổn định. Dự án hiện có một hợp tác xã liên kết làm “vùng đệm” nguyên liệu; song song đó, BINKS đang xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn, đã được kiểm định để phục vụ kế hoạch mở rộng và xuất khẩu trong thời gian tới. Về bao bì và yếu tố môi trường, BINKS đang từng bước chuyển đổi sang bao bì thân thiện hơn, phù hợp tiêu chuẩn xanh khi mở rộng nhà xưởng, kho bãi và hệ thống logistics.
Hiện dự án có đội ngũ 15 nhân sự, phụ trách các mảng nghiên cứu – sản xuất, kinh doanh và marketing, sẵn sàng cho giai đoạn tăng tốc tiếp theo.

Dự án Ontab gây chú ý tại Chung kết Khởi nghiệp Quốc gia 2025 với mô hình giáo dục lấy học sinh làm trung tâm, kết hợp công nghệ và đội ngũ giáo viên trẻ.

Tại sự kiện, đại diện Ontab giới thiệu một cách tiếp cận mới đối với giáo dục phổ thông, xuất phát từ thực trạng nhiều học sinh suy giảm động lực học tập trong môi trường nặng áp lực điểm số và thành tích.
Từ thực tế đó, Ontab xây dựng một hệ sinh thái giáo dục lấy học sinh làm trung tâm, coi việc học là hành trình trải nghiệm thay vì nghĩa vụ. Dự án hướng tới trẻ hóa văn hóa học đường, tăng tính tương tác và khơi dậy động lực nội tại của người học. Đồng thời, Ontab đề xuất vai trò mới cho giáo viên, không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn truyền cảm hứng, dẫn dắt và tạo ảnh hưởng tích cực, được ví như “giáo viên KOL”.

Về mô hình hoạt động, Ontab kết hợp học offline, online với hệ sinh thái nội dung số như livestream, video ngắn, workshop và trò chơi giáo dục, phù hợp với thói quen tiếp nhận thông tin của học sinh thế hệ mới. Cách làm này giúp tăng sự gắn kết giữa giáo viên và người học, tạo động lực học tập bền vững hơn.
Bước đầu, Ontab đã đồng hành cùng hơn 1.500 học sinh, nhiều em đạt kết quả cao và trúng tuyển đúng nguyện vọng. Thời gian tới, dự án đặt mục tiêu mở rộng ra nhiều địa phương, xây dựng học viện đào tạo giáo viên và hợp tác với các trường phổ thông, hướng tới hình thành một hệ sinh thái giáo dục năng động, nhân văn và phù hợp với bối cảnh giáo dục hiện đại.
Ông Vũ Thanh Thắng, Giám đốc Trí tuệ nhân tạo CAIO - Founder Công ty cổ phần An ninh mạng SCS đặt câu hỏi cho nhóm dự án là tập trung làm rõ tính mới của nền tảng và cách Ontab ứng dụng công nghệ, đặc biệt là AI (trí tuệ nhân tạo). Trước ý kiến cho rằng AI chưa phải điểm nổi bật, đại diện Ontab cho biết dự án ưu tiên phát triển bền vững người dùng, lấy chất lượng đội ngũ giáo viên và xây dựng cộng đồng làm trọng tâm. Ontab được định vị là nơi học sinh chủ động tìm đến để học; việc kết hợp giáo viên giỏi với KOC (Key Opinion Consumer - người có ảnh hưởng tới quyết định của người dùng trên mạng xã hội) giúp tạo lượng truy cập lớn và mở rộng tệp học sinh.


Về nhân sự giảng dạy, Ontab vừa tuyển chọn vừa đào tạo giáo viên trẻ, tất cả đều trải qua quá trình sàng lọc. Dự án cũng xây dựng đội ngũ đứng sau để đào tạo KOC cả về chuyên môn lẫn kỹ năng truyền thông. Để đánh giá KOC có phù hợp hay không, Ontab khai thác các kênh như Facebook, TikTok và livestream; học sinh tiếp cận nội dung, nếu thấy phù hợp sẽ truy cập website để tìm hiểu sâu hơn. Hiện AI được Ontab ứng dụng chủ yếu ở khâu vận hành, như chatbot (trợ lý trả lời tự động) nhằm hỗ trợ học viên và tối ưu nhân sự.
Về kinh doanh, Ontab hiện có khoảng 1.000 học sinh, doanh thu đạt 2,5 tỷ đồng, học phí trung bình 2,4 triệu đồng mỗi khóa. Các kênh truyền thông ghi nhận hơn 1 triệu lượt xem, cho thấy mức độ quan tâm lớn. Dự án ước tính điểm hòa vốn ở mức khoảng 2.500 học sinh; trong giai đoạn tới, nguồn vốn sẽ tiếp tục được ưu tiên đầu tư cho cơ sở hạ tầng và công nghệ nhằm phục vụ mở rộng quy mô.
Ở giai đoạn đầu, Ontab lựa chọn tập trung vào thị trường ngách là các kỳ đánh giá năng lực. Khi đã xây dựng được vị thế và tệp người học ổn định, dự án sẽ từng bước mở rộng sang HSA (kỳ thi đánh giá năng lực của Đại học Quốc gia Hà Nội) và các chương trình phục vụ kỳ thi tốt nghiệp THPT. Song song đó, Ontab triển khai mô hình KOC với chế độ lương cứng kết hợp hoa hồng tiếp thị liên kết, trong đó mức chi trả là 400.000 đồng cho mỗi lượt giới thiệu và 100.000 đồng cho mỗi học sinh đăng ký thành công.

Theo Ontab, thế mạnh lớn nhất của dự án nằm ở đội ngũ giáo viên và KOC trẻ, giàu kinh nghiệm, tạo sự gần gũi và hứng thú cho người học, qua đó tạo khác biệt trên thị trường giáo dục số.
Từ sâm Núi Dành giàu saponin, startup SAMMAX phát triển đồ uống thảo mộc dựa trên nghiên cứu khoa học, hướng tới sức bền thể lực, giá phổ cập và khai thác bền vững dược liệu bản địa.

Chia sẻ tại Vòng Chung kết Chương trình Phát triển dự án khởi nghiệp Quốc gia năm 2025, dự án SAMMAX do bà Ngọc Chung, CEO Công ty Sâm Tổ Núi Dành, đại diện đã thu hút sự quan tâm của Ban Giám khảo nhờ cách tiếp cận kết hợp giữa khoa học hiện đại và nguồn dược liệu bản địa lâu đời.
SAMMAX được phát triển từ vùng nguyên liệu sâm Núi Dành, khu bảo tồn và phát triển sâm quy mô khoảng 200 ha tại tỉnh Bắc Ninh. Theo đại diện dự án, sâm Núi Dành là dược liệu quý từng được dùng để tiến vua, có tác dụng thanh nhiệt, bồi bổ sức khỏe.
Điểm nổi bật của giống sâm này nằm ở hàm lượng Saponin – hoạt chất quan trọng nhất trong sâm – dao động từ 3% đến 26% ở củ, tương đương nhiều loại sâm nổi tiếng trên thế giới. Đáng chú ý, hoa sâm còn có hàm lượng Saponin cao hơn, song trong thời gian dài chưa được khai thác đúng mức.
Không định vị SAMMAX như một loại nước giải khát thông thường, nhóm dự án giới thiệu sản phẩm như kết quả của quá trình nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ. Dự án có sự đồng hành của Tiến sĩ Bá Thị Châm, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, chuyên gia có hơn 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thảo dược. Công thức sản phẩm là sự kết hợp giữa sâm Núi Dành, Đông trùng hạ thảo và Linh chi – những dược liệu giàu Saponin, Polysaccharide và Polyphenol, có tác dụng hỗ trợ tăng cường thể lực và sức bền.

Quá trình sản xuất sử dụng công nghệ chiết lạnh kết hợp lên men tự nhiên, không dùng chất bảo quản. Theo nhóm nghiên cứu, sản phẩm đã trải qua các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm (in vitro), thử nghiệm độc tính cấp đối với dược liệu và sản phẩm dùng thử trên người tình nguyện, nhằm bảo đảm tính an toàn trước khi thương mại hóa.
Về chiến lược thị trường, SAMMAX xác định ba nhóm khách hàng mục tiêu chính. Thứ nhất là người chơi thể thao, nhóm cần tăng cường thể lực bền bỉ thay vì chỉ bù điện giải tức thời. Thứ hai là người lao động cường độ cao, có nhu cầu duy trì sự tỉnh táo và sức khỏe ổn định. Thứ ba là người cao tuổi hoặc người mới ốm dậy, cần phục hồi thể trạng. Với mức giá dự kiến khoảng 25.000 đồng/chai, dự án hướng tới mục tiêu phổ cập hóa sản phẩm từ sâm, thay vì chỉ phục vụ phân khúc cao cấp như sâm Ngọc Linh – vốn có giá lên tới hàng trăm triệu đồng mỗi kg.

Lợi thế cạnh tranh của dự án được Ban Giám khảo đặt ra trong phần hỏi–đáp. Theo nhóm dự án, vùng Núi Dành – khu vực giáp ranh Bắc Ninh và Bắc Giang (cũ) – có điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu đã được các đề tài khoa học cấp Nhà nước công nhận là phù hợp cho sự phát triển của giống sâm bản địa. Sâm được trồng theo hướng tự nhiên, không sử dụng hóa chất. Trong khi sâm củ cần hơn 5 năm mới đủ điều kiện thu hoạch, dự án lựa chọn khai thác song song hoa sâm – loại nguyên liệu có thể thu hoạch hằng năm trong khoảng một tháng – nhằm tăng thu nhập cho người dân và tránh lãng phí tài nguyên sinh học.
Theo kế hoạch kinh doanh, SAMMAX đặt mục tiêu tiêu thụ khoảng 300.000–400.000 chai vào năm 2027 và nâng lên 2–3 triệu chai trong các năm tiếp theo, với thời gian hoàn vốn dự kiến từ 2 đến 2,5 năm.

Ban Giám khảo đánh giá cao hàm lượng dược tính của sản phẩm, cho rằng SAMMAX có chất lượng tương đương, thậm chí cao hơn nhiều sản phẩm hiện có trên thị trường. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng bao bì và nhãn mác hiện tại chưa thực sự tương xứng với giá trị khoa học và dược liệu của sản phẩm. Đại diện dự án cho biết sản phẩm đang trong giai đoạn hoàn thiện cơ chế và khảo nghiệm trước khi ra mắt chính thức, do đó bao bì thương mại sẽ tiếp tục được điều chỉnh trong thời gian tới.

Khi được hỏi về cơ sở khoa học của công thức, Tiến sĩ Bá Thị Châm khẳng định các thành phần như sâm Núi Dành, đông trùng hạ thảo và linh chi đều đã được chứng minh giàu saponin và các hoạt chất hỗ trợ cơ thể thông qua nhiều nghiên cứu khoa học. Việc kết hợp các dược liệu này dựa trên cả nền tảng nghiên cứu và lợi thế thực tiễn khi Việt Nam có thể chủ động trồng và khai thác nguồn nguyên liệu trong nước.
Từ sâm Núi Dành giàu saponin, startup SAMMAX phát triển đồ uống thảo mộc dựa trên nghiên cứu khoa học, hướng tới sức bền thể lực, giá phổ cập và khai thác bền vững dược liệu bản địa.

Với việc tích hợp nhiều công nghệ vào một ứng dụng, phần mềm CheckNow của nhóm Công ty Cổ phần Công nghệ số NextGen được cho sẽ là giải pháp tối ưu quản lý theo thời gian thực.

Chia sẻ về dự án bà Hoà Binh - CMO của NetxGen cho biết, Dự án CheckNow mong muốn trở thành cầu nối giữa doanh nghiệp và lực lượng lao động.
Theo bà Hoà Bình, trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp xây dựng, sản xuất và dịch vụ đang loay hoay với bài toán quản lý nhân sự, vận hành và kiểm soát tài sản, nền tảng CheckNow ra đời như một giải pháp khởi nghiệp xuất phát từ nhu cầu thực tế.

“Tại các công trường và nhà máy, mỗi ngày có hàng trăm công nhân ra vào, ca trực thay đổi liên tục, vật tư - tài sản cần kiểm kê thường xuyên. Việc chấm công thiếu minh bạch, dữ liệu rời rạc và chi phí nhân sự tăng cao khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó. Chỉ cần vài người chấm công hộ nhau là cả hệ thống báo cáo bị sai lệch, chúng tôi mất hàng giờ để rà soát,” bà Hoà Bình chia sẻ.
Đồng thời cho biết, CheckNow tích hợp Camera AI và Face ID giúp loại bỏ gian lận chấm công, đồng thời cung cấp báo cáo thời gian thực giúp nhà quản lý ra quyết định nhanh và chính xác. Giao diện đơn giản, dễ triển khai khiến nền tảng trở thành lựa chọn phù hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ – nhóm ít có bộ phận IT chuyên trách…
Đại diện Hội đồng Ban giám khảo đề nghị nhóm dự án thuyết trình, làm rõ về công nghệ xử lý dữ liệu sau khi thu thập và vận hành phần mềm, định hướng phát triển.
Thuyết trình về nội dung quan tâm từ Hội đồng Ban giám khảo, đại diện nhóm dự án cho biết, để xử lý những dữ liệu hỗ trợ hoạt động, phần mềm đã tích hợp công nghệ AI để đưa ra các gợi ý, đề xuất trong quá trình vận hành… phần mềm tích hợp Camera AI và Face ID để nâng cao, thúc đẩy tính tính năng của phần mềm trong quá trình vận hành.
Bên cạnh đó, liên quan đến vấn đề về đối tượng có thể ứng dụng sản phẩm, đại diện nhóm dự án cũng cho biết, phần mềm có thể ứng dụng trong hoạt động của nhiều loại thành phần doanh nghiệp, ngoài các doanh nghiệp xây dựng, việc tích hợp quản lý có thể ứng dụng cho các loại hình doanh nghiệp khác như công ty bảo vệ, công ty gạch men, và có thể là các trang trại,…


Đại diện nhóm dự án nhấn mạnh, CheckNow sẽ trở thành cầu nối giữa doanh nghiệp và lực lượng lao động, giúp nâng cao tay nghề, tăng năng suất và thúc đẩy chuyển đổi số với chi phí hợp lý để trở thành nền tảng quản lý số 1 tại Việt Nam trong lĩnh vực xây dựng, sản xuất và dịch vụ.
Góp ý thêm cho dự án, ông Đàm Quang Thắng - Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Quốc gia cũng lưu ý, với những tính năng đa dụng, phục vụ được cho nhiều đối tượng, nhóm dự án không nên chỉ nhấn vào nhóm đối tượng là các doanh nghiệp xây dựng.
Được biết, hành trình khởi nghiệp của phần mềm CheckNow của nhóm dự án được ghi nhận bằng nhiều thành tích nổi bật như: Giải Nhì Cuộc thi Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Huế 2025; Top 20 Dự án Khởi nghiệp Quốc gia 2025; Đại diện TP Huế tham dự Techfest Việt Nam 2025 tại Hà Nội.
Dự án Trà lam Tà Xùa được hình thành từ mong muốn nâng tầm giá trị chè shan tuyết cổ thụ gắn với bảo tồn tài nguyên và sinh kế cộng đồng, thay vì khai thác theo hướng đại trà.
Tại vòng Chung kết Chương trình Phát triển dự án khởi nghiệp Quốc gia năm 2025, đại diện Dự án Trà lam Tà Xùa, sản vật giao thoa đất trời cho biết Trà lam Tà Xùa được phát triển từ chè shan tuyết cổ thụ hàng trăm năm tuổi – thứ mà đồng bào Mông nơi đây coi là “vàng xanh của núi”. Điểm khác biệt của sản phẩm nằm ở phương thức chế biến: trà sau khi sao, sấy theo kỹ thuật truyền thống được ủ thủ công trong ống lam rừng tươi, vừa là bao bì tự nhiên, vừa tạo lớp hương gỗ rừng đặc trưng mà không công nghệ công nghiệp nào có thể tái tạo.

Từ năm 2021 đến nay, dự án Trà lam Tà Xùa đã cung ứng ra thị trường thực phẩm sạch hơn 10.000 ống trà lam, đạt doanh thu trên 2 tỷ đồng trong năm 2024. Sản phẩm được đón nhận mạnh tại các cửa hàng đặc sản, hệ thống trà sạch và khách du lịch đến Sơn La. Trà lam Tà Xùa hiện đang hoàn thiện hồ sơ bảo hộ thương hiệu và hướng đến đạt OCOP 3 sao, đồng thời mở rộng thị trường sang Hà Nội, TP HCM trước khi tiến tới xuất khẩu sang các nước châu Á và châu Âu - nơi nhu cầu trà thủ công cao cấp ngày càng tăng.

Đại diện dự án nhấn mạnh, dự án đặt mục tiêu phát triển theo hướng xanh và bền vững như hạn chế tối đa tác động đến hệ sinh thái, thu hái có kiểm soát, bảo tồn cây chè cổ thụ và hạn chế rác thải nhựa thông qua việc dùng ống lam tự nhiên. Đồng thời, nhóm sáng lập hướng tới xây dựng mô hình du lịch trải nghiệm “Uống trà giữa mây Tà Xùa”, giúp khách hàng hiểu sâu hơn về văn hóa bản địa và vòng đời của sản phẩm.
Với định hướng phát triển bền vững và câu chuyện giàu tính bản địa, Trà lam Tà Xùa không chỉ là một sản phẩm trà sạch mà còn là biểu tượng của tinh thần khởi nghiệp từ tài nguyên bản địa - vừa nâng tầm đặc sản núi rừng, vừa lan tỏa giá trị bền vững trong cộng đồng.
Sau phần thuyết trình của nhóm dự án, đại diện Ban Giám khảo, ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng Giám đốc Công ty Vina T&T Group, bày tỏ ấn tượng với ý tưởng và chất lượng của Trà lam Tà Xùa, song cho rằng để sản phẩm thực sự chinh phục thị trường rộng lớn, đặc biệt là hệ thống khách sạn, siêu thị và xuất khẩu, niềm tin của người tiêu dùng cần được bảo chứng bằng tiêu chuẩn và chứng nhận. Theo ông, một sản phẩm sạch không thể chỉ dừng ở câu chuyện hay bản sắc địa phương, mà cần sớm hoàn thiện các yêu cầu về chỉ dẫn địa lý, tiêu chuẩn chất lượng và các chứng nhận phù hợp.

Trả lời vấn đề này, đại diện nhóm dự án cho biết Trà lam Tà Xùa được trồng tại khu vực đỉnh Tà Xùa, hoàn toàn không sử dụng hóa chất, canh tác theo phương thức tự nhiên. Trong năm 2025, dự án đang hoàn thiện hồ sơ bảo hộ thương hiệu, đồng thời nhận được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương trong việc xây dựng và phát triển sản phẩm OCOP 3 sao, làm nền tảng để từng bước chuẩn hóa và mở rộng thị trường.
Một câu hỏi khác được Ban giám khảo đặt ra liên quan đến quy trình thu mua nguyên liệu và khả năng đồng bộ chất lượng khi liên kết với người dân.


Đại diện dự án cho biết, ngoài vùng nguyên liệu của hợp tác xã, dự án có thể thu mua từ các hộ dân đủ điều kiện, song quy trình được kiểm soát chặt chẽ. Cụ thể, trà chỉ được hái trước 9 giờ sáng và sau 15 giờ chiều, thời điểm lá trà đạt độ ẩm và hàm lượng tinh chất tốt nhất. Đội ngũ kỹ thuật của dự án trực tiếp giám sát từ khâu thu hái đến sơ chế; những hộ không đáp ứng tiêu chuẩn sẽ không được thu mua. Nhờ đó, chất lượng thành phẩm được đảm bảo đồng đều, giữ trọn hương vị đặc trưng của trà shan tuyết Tà Xùa.
Theo lộ trình phát triển đến năm 2030, nhóm dự án đặt mục tiêu khai thác bền vững các vùng trồng được quy hoạch, tạo việc làm ổn định cho khoảng 150 lao động địa phương, đồng thời tiếp tục nâng cấp sản phẩm, gia tăng giá trị và doanh thu, hướng tới xây dựng Trà lam Tà Xùa trở thành thương hiệu trà thủ công cao cấp mang bản sắc vùng cao.
HCM Health Hub mang đến Chung kết Khởi nghiệp Quốc gia 2025 giải pháp y tế đô thị thông minh, ứng dụng AI nhằm chuyển từ “phản ứng” sang “chủ động dự báo” sức khỏe.

Đặc biệt, thời gian qua, nhiều dự án của Chương trình Khởi nghiệp Quốc gia đã góp mặt ở các cuộc thi và triển lãm quốc tế tại nhiều quốc gia khác nhau, đây là cơ hội tốt để các dự án được mở rộng hợp tác, trao đổi kinh nghiệm và tìm kiếm nguồn lực hỗ trợ....
Tại sự kiện, đại diện dự án HCM Health Hub đã trình bày tầm nhìn xây dựng một nền tảng y tế đô thị thông minh, hướng tới chuyển đổi hệ thống y tế TP HCM từ mô hình “phản ứng” sang “chủ động dự báo”.

HCM Health Hub được phát triển nhằm kết nối, chuẩn hóa và trực quan hóa toàn bộ luồng dữ liệu y tế đô thị, hình thành một hệ thống quan trắc sức khỏe tập trung theo thời gian thực. Trên nền tảng đó, dự án ứng dụng trí tuệ nhân tạo để phân tích dữ liệu đa nguồn, từ hồ sơ y tế, dịch tễ học đến các yếu tố môi trường.
Điểm nhấn trong phần thuyết trình là khả năng dự báo sớm các rủi ro sức khỏe cộng đồng. Bên cạnh cảnh báo dịch bệnh, HCM Health Hub còn nghiên cứu mô hình dự đoán nguy cơ đột quỵ dựa trên sự kết hợp giữa dữ liệu y tế với các yếu tố môi trường như thời tiết, nhiệt độ, độ ẩm, chất lượng không khí và bụi mịn. Theo nhóm dự án, việc theo dõi các biến số này theo không gian và thời gian cho phép hệ thống nhận diện sớm những khu vực, nhóm dân cư có nguy cơ cao, từ đó hỗ trợ đưa ra khuyến cáo và biện pháp can thiệp kịp thời.
Ngoài chức năng dự báo, HCM Health Hub được định hướng trở thành nền tảng dữ liệu lõi cho vận hành y tế đô thị, hỗ trợ theo dõi xu hướng bệnh theo mùa, tối ưu công suất bệnh viện, phân bổ nhân lực và trang thiết bị y tế, cũng như xây dựng bản đồ sức khỏe phục vụ hoạch định chính sách và chuyển đổi số ngành y tế.
Tại phần hỏi - đáp, ban giám khảo tập trung trao đổi về tính khả thi thương mại của dự án, đặc biệt là chi phí và cách tiếp cận người dùng. Trả lời câu hỏi “bán cho ai” trong bối cảnh nguy cơ đột quỵ khó xác định trước, đại diện HCM Health Hub cho biết dự án không hướng tới một nhóm khách hàng hẹp mà phục vụ cộng đồng nói chung. Ứng dụng được xây dựng theo mô hình thuê bao với nhiều gói dịch vụ, trong đó có gói cơ bản khoảng 19.000 đồng, cung cấp các cảnh báo tự động khi hệ thống phát hiện nguy cơ đột quỵ tăng cao.

Liên quan đến việc đưa sản phẩm ra thị trường, ban giám khảo cũng chia sẻ những băn khoăn về bài toán marketing, khi nhiều giải pháp cùng lĩnh vực từng gặp khó khăn trong thương mại hóa. Đại diện HCM Health Hub cho biết dự án hiện nhận được sự hỗ trợ từ Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM, đây được xem là một kênh quan trọng giúp tiếp cận nhóm người dùng ban đầu tuy nhiên cũng còn những khó khăn trong tiếp cận khách hàng. Đồng thời, nhóm cho biết sẽ triển khai theo hướng thận trọng, đi từ quy mô nhỏ, thử nghiệm, hoàn thiện sản phẩm trước khi mở rộng.
Ở khía cạnh chuyên môn, ban giám khảo gợi mở để dự án làm rõ hơn cơ sở khoa học của giải pháp. Đại diện HCM Health Hub cho biết sẽ tiếp thu ý kiến và thông tin rằng nền tảng được xây dựng trên cách tiếp cận đa chiều, không chỉ dựa vào dữ liệu chất lượng không khí mà còn kết hợp các yếu tố như thời tiết, áp suất, môi trường sống và dữ liệu hành vi người dùng. Từ việc tổng hợp dữ liệu thu thập qua điện thoại thông minh và các nguồn môi trường, hệ thống ứng dụng AI để phân tích và ước tính nguy cơ đột quỵ theo từng cá nhân, qua đó hỗ trợ cảnh báo sớm và phòng ngừa.
.jpg)

Trước câu hỏi về việc tham chiếu các mô hình quốc tế, nhóm dự án cho biết HCM Health Hub được phát triển theo hướng linh hoạt và cá nhân hóa. Các thuật toán không áp dụng một khuôn mẫu chung, mà liên tục điều chỉnh dựa trên dữ liệu riêng của mỗi người dùng, nhằm phản ánh sự khác biệt về thể trạng và điều kiện sống, từ đó phù hợp hơn với bối cảnh y tế tại Việt Nam.
Khép lại phần trao đổi, nhóm dự án khẳng định sẽ nghiêm túc tiếp thu các ý kiến đóng góp của ban giám khảo để tiếp tục hoàn thiện mô hình và giải pháp trong thời gian tới.
Từ phụ phẩm xơ mướp, Làng Mướp không chỉ tạo ra sản phẩm xuất khẩu thân thiện môi trường, mà còn giải bài toán sinh kế ổn định cho nông dân và lao động thủ công địa phương.

Tại vòng chung kết, dự án Làng Mướp của CEO Đỗ Đăng Khoa, đã trình bày một mô hình kinh doanh bền vững, biến xơ mướp – một phụ phẩm nông nghiệp từng bị xem là phế thải – thành các sản phẩm thân thiện môi trường có giá trị kinh tế cao.
Khởi nguồn từ Đồng Tháp, Làng Mướp được xây dựng với sứ mệnh tái sinh xơ mướp, đồng thời tạo sinh kế ổn định cho nông dân và lao động thủ công địa phương. Theo đại diện dự án, trong nhiều năm, xơ mướp thường bị bỏ đi, trong khi nông dân thiếu các mô hình kinh tế bền vững, còn rác thải nhựa ngày càng gia tăng. Làng Mướp ra đời nhằm giải quyết đồng thời cả ba bài toán: môi trường, sinh kế và giá trị gia tăng cho nông sản.
Dự án xây dựng chuỗi giá trị xanh bắt đầu từ vùng trồng bền vững, ký kết bao tiêu đầu ra cho nông dân, sau đó tổ chức sản xuất thủ công với sự tham gia của các nghệ nhân và thợ lành nghề tại địa phương. Các dòng sản phẩm của Làng Mướp khá đa dạng, bao gồm đồ dùng nhà tắm, nhà bếp, đồ chơi thú cưng và các sản phẩm trang trí (décor), với nhiều mức giá khác nhau, phục vụ cả thị trường trong nước và xuất khẩu.
Theo ông Khoa, đồ chơi thú cưng từ xơ mướp đã được xuất khẩu hơn 10 năm, tạo nền tảng để doanh nghiệp mở rộng sang các dòng sản phẩm tiêu dùng khác. Hiện nay, sản phẩm của Làng Mướp đã có mặt tại các hệ thống bán lẻ như Aeon, các đại lý và kênh bán hàng trực tuyến trong nước, đồng thời xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc và đang từng bước tiếp cận thị trường châu Âu.
Trong phần trình bày kế hoạch tăng trưởng, đại diện dự án cho biết doanh thu giai đoạn 2024–2025 đạt khoảng 12 tỷ đồng. Doanh nghiệp đặt mục tiêu nâng doanh thu lên 28 tỷ đồng vào năm 2027 và 48 tỷ đồng vào năm 2028.

Để hiện thực hóa kế hoạch này, Làng Mướp dự kiến xây dựng xưởng sản xuất quy mô khoảng 500 m², đáp ứng các tiêu chuẩn kiểm định (audit) của các tập đoàn bán lẻ quốc tế như Aeon và Muji, đồng thời tập trung vào phân khúc B2B và xuất khẩu.
Tại phiên hỏi–đáp, Ban Giám khảo đặt vấn đề về khả năng mở rộng quy mô, đặc biệt trong kịch bản phải cung ứng hàng triệu sản phẩm trong thời gian ngắn cho các thị trường lớn như Mỹ. Trả lời câu hỏi này, CEO Đỗ Đăng Khoa cho biết Làng Mướp không dựa hoàn toàn vào một nhà máy tập trung, mà tận dụng hệ sinh thái lao động nhàn rỗi tại địa phương. Doanh nghiệp xây dựng các “hub” lao động quy mô nhỏ, qua đó có thể mở rộng số lượng thợ thủ công từ 10 người (tương đương khoảng 50.000 sản phẩm) lên 100 người để đáp ứng các đơn hàng lớn.
Bài toán tiếp theo được Ban Giám khảo đặt ra là làm thế nào để tăng sản lượng mà không làm đội chi phí và mất đi lợi thế cạnh tranh về giá.
Theo nhóm dự án, giải pháp nằm ở việc ứng dụng khoa học công nghệ và bán tự động hóa trong sản xuất. Làng Mướp đã phát triển dòng sản phẩm lọc dầu từ xơ mướp và được công nhận là doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Trong tương lai, startup được các chuyên gia khuyến nghị hướng tới nâng cấp mô hình bán tự động để vừa nâng năng suất, vừa giữ được tính thủ công và giá trị văn hóa của sản phẩm.



Về giá thành, đại diện dự án cho biết sản phẩm từ xơ mướp hiện có giá cao hơn các sản phẩm nhựa cùng loại khoảng 10–15%. Tuy nhiên, theo CEO Làng Mướp, mức chênh lệch này là chấp nhận được trong bối cảnh người tiêu dùng ngày càng sẵn sàng chi trả cho các sản phẩm thân thiện với môi trường và an toàn cho sức khỏe.
Một số ý kiến cũng gợi ý doanh nghiệp nên chuyển một phần công đoạn sơ chế ban đầu cho nông dân để tối ưu chi phí đầu tư, đồng thời tạo thêm thu nhập cho người trồng mướp.
Cuối cùng, Ban Giám khảo lưu ý bài toán quản trị mô hình và chi phí đầu tư khi doanh nghiệp tăng trưởng nhanh. Dự án được khuyến nghị cần xác định rõ đâu là khâu cốt lõi doanh nghiệp nên trực tiếp thực hiện, và đâu là các công đoạn có thể chuyển giao – như sơ chế nguyên liệu - nhằm tối ưu nguồn lực, tránh đầu tư dàn trải và giữ được hiệu quả tài chính trong giai đoạn mở rộng.
Trong bối cảnh nhu cầu chuyển đổi sang các vật liệu bao bì thân thiện môi trường ngày một mạnh mẽ, dự án BioWraps tái sinh vỏ cam được cho giải pháp bao bì sinh học bền vững.

Chia sẻ về dự án BioWraps, đại diện dự án cho biết, trong bối cảnh ô nhiễm nhựa đang trở thành vấn đề môi trường cấp bách toàn cầu, nhu cầu chuyển đổi sang các vật liệu bao bì thân thiện môi trường chưa bao giờ mạnh mẽ như hiện nay. Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia thải ra rác nhựa nhiều nhất châu Á, với hơn 3,9 triệu tấn mỗi năm, trong đó gần 70% không được tái chế đúng quy trình.

Nhựa dùng một lần xuất hiện ở mọi lĩnh vực, từ thực phẩm, nông nghiệp đến thương mại điện tử, gây ra ô nhiễm đất, nước và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Song song đó, ngành công nghiệp chế biến nông sản mỗi năm tạo ra hàng triệu tấn phế phẩm, đặc biệt là vỏ cam – nguồn nguyên liệu giàu cellulose, pectin và tinh chất sinh học nhưng chưa được tận dụng hiệu quả. Đây chính là bài toán kép đòi hỏi một giải pháp mang tính đột phá và bền vững.
“Dự án BioWraps được xây dựng để giải quyết hai vấn đề lớn này bằng cách kết hợp công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và mô hình kinh tế tuần hoàn. BioWraps phát triển bao bì sinh học phân hủy hoàn toàn từ phế phẩm vỏ trái cây, đặc biệt là vỏ cam – phụ phẩm chiếm tỷ lệ lớn trong ngành nước ép và chế biến thực phẩm.
Nhờ quy trình chiết xuất cellulose và tối ưu hóa BioWraps tạo ra vật liệu Bioplastic với độ bền, độ dẻo và khả năng chịu nhiệt tương đương bao bì nhựa truyền thống nhưng hoàn toàn không chứa vi nhựa hay hóa chất độc hại. Sản phẩm có thể phân hủy sinh học trong 6-12 tháng, không để lại tàn dư gây hại cho môi trường”, đại diện dự án chia sẻ.

Đồng thời đại diện cho hay, điểm khác biệt lớn của BioWraps so với các loại bao bì sinh học phổ biến hiện nay như nhựa PLA là việc sử dụng nguồn nguyên liệu bản địa, rẻ và dồi dào, từ đó giúp tối ưu chi phí và giảm phụ thuộc vào vật liệu nhập khẩu. Nguồn phế phẩm vỏ cam tại Việt Nam và khu vực Mekong đủ lớn để duy trì chuỗi cung ứng bền vững trong thời gian dài.
Ngoài ra, công nghệ của BioWraps còn có khả năng tùy biến theo nhu cầu tạo màng bọc, cả hạt BioResin cho doanh nghiệp OEM. Điều này mở ra cơ hội thương mại hóa rộng rãi cho nhiều ngành hàng, đặc biệt là F&B, siêu thị, nông nghiệp hữu cơ và xuất khẩu.


Theo đại diện dự án, thị trường mục tiêu của BioWraps rộng lớn và tăng trưởng nhanh. Trên thế giới, thị trường bao bì sinh học đạt giá trị khoảng 130 tỷ USD năm 2024 và dự kiến vượt 250 tỷ USD vào 2030 với tốc độ tăng trưởng 15–17%/năm. Riêng tại Việt Nam, dung lượng thị trường bao bì xanh được đánh giá ở mức hơn 1 tỷ USD và tiếp tục mở rộng nhờ các chính sách hạn chế nhựa dùng một lần, xu hướng tiêu dùng xanh và yêu cầu ESG từ thị trường quốc tế.
Đặc biệt, các ngành xuất khẩu sang châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản đang chịu áp lực tuân thủ tiêu chuẩn bền vững, tạo cơ hội rất lớn cho các giải pháp thay thế nhựa truyền thống.
“BioWraps đặt mục tiêu trở thành doanh nghiệp tiên phong của Việt Nam trong lĩnh vực này, hướng đến mở rộng sang các thị trường giàu tiềm năng như Hàn Quốc, Hong Kong và Na Uy trong giai đoạn 2025–2026. Với lợi thế về giá thành cạnh tranh, nguồn nguyên liệu phong phú và khả năng nội địa hóa công nghệ, BioWraps có vị thế tốt để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng từ các doanh nghiệp F&B, siêu thị, trang trại nông nghiệp và nền kinh tế xuất khẩu của Việt Nam”, đại diện dự án bày tỏ.
Đồng thời cho hay, những năm qua, dự án BioWraps đã đạt thành tựu như, Top 10 Winner Startup Express International 2025, Top 8 HK Tech300 Vietnam Round, Top 12 Viet Nam – Japan Challenge 2025 cùng sự đồng hành của nhiều đối tác chiến lược từ nhà máy chế biến trái cây, trường đại học đến doanh nghiệp F&B trong nước và quốc tế. Hiện dự án đang trong quá trình gọi vốn 1,6 triệu USD để mở rộng sản xuất, tăng cường R&D, phát triển thị trường và thương mại hóa vật liệu BioWraps resin.

.jpg)
Đặt câu hỏi cho đại diện dự án, Hội đồng Ban giám khảo quan tâm đến vấn đề pháp lý và định hướng phát triển của dự án, nguồn nguyên liệu và kết hoạch phát triển nguồn nguyên liệu, cũng như việc sử dụng nguồn vốn dự án đã huy động.
Trả lời những quan tâm của Hội đồng Ban giám khảo, đại diện dự án cho biết, hiện hồ sơ dự án đang chờ cấp phép, phạm vi của giấy phép tại thị trường trong nước. Hiện dự án đã huy động được một nguồn vốn ban đầu và đang thực hiện xây dựng, hoàn thiện nhà máy.
Theo đại diện dự án, sản phẩm dự án làm ra hiện đang thông qua hợp tác với một doanh nghiệp trong nước có đầy đủ pháp lý để xuất khẩu ra nước ngoài.
Về vấn đề nguyên liệu và nguồn nguyên liệu, đại diện cũng cho hay, hiện nguồn nguyên liệu của dự án tập trung chủ yếu ở Đồng bằng Sông Cửu long, ngoài vỏ cam thì hiện tại dự án đang xử dụng thêm cả vỏ cây, bởi để sản xuất lớn một mình vỏ cam sẽ khó có thể đáp ứng được nhu cầu.
Trả lời thêm về nội dung Hội đồng Ban giám khảo quan tâm, đại diện nhóm cũng cho rằng, không chỉ dừng lại ở việc sản xuất bao bì xanh, BioWraps còn hướng đến xây dựng hệ sinh thái kinh tế tuần hoàn, chuyển sang mô hình sản xuất xanh với chi phí hợp lý...
Dự án Sản xuất, chế biến và thương mại nấm ăn – nấm dược liệu dưới mái pin năng lượng mặt trời hướng tới kiến tạo chuẩn mực mới cho nông nghiệp hiện đại.

Trong số các dự án bước vào vòng chung kết, dự án Sản xuất, chế biến, thương mại nấm ăn và nấm dược liệu dưới mái pin năng lượng mặt trời cũng đã thu hút sự quan tâm của Ban giám khảo và cộng đồng khởi nghiệp.
Chia sẻ tại Chương trình, đại diện dự án cho biết, điểm nhấn nổi bật của dự án là mô hình “nông nghiệp kép” - kết hợp hệ thống mái pin mặt trời với khu vực trồng nấm bên dưới. Hệ thống pin vừa tạo ra nguồn điện sạch phục vụ toàn bộ hoạt động sản xuất, vừa đóng vai trò như lớp cách nhiệt thông minh, giúp ổn định nhiệt độ quanh năm; hạn chế bức xạ trực tiếp; tạo tiểu khí hậu lý tưởng cho phát triển nấm.

Nhờ đó, dự án giải quyết đồng thời nhiều bài toán của nông nghiệp truyền thống như chi phí điện năng cao, rủi ro thời tiết và sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng bên ngoài. Mô hình được thiết kế theo dạng mô-đun, có khả năng mở rộng quy mô linh hoạt tại nhiều địa phương.
Không chỉ dừng lại ở khâu nuôi trồng, dự án xây dựng chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất giống, nuôi trồng, chế biến đến thương mại hóa sản phẩm. Hai nhóm sản phẩm chính gồm (1) Nấm ăn: nấm bào ngư, nấm sò, nấm rơm… phục vụ thị trường thực phẩm sạch; (2) Nấm dược liệu: linh chi, vân chi, đầu khỉ… đáp ứng xu hướng chăm sóc sức khỏe tự nhiên. Đặc biệt, nhóm đẩy mạnh chế biến sâu với các sản phẩm như nấm sấy, trà nấm, cà phê nấm, bột nấm chức năng… Qua đó, giá trị kinh tế của sản phẩm được nâng lên nhiều lần so với tiêu thụ nông sản thô.
Bên cạnh giá trị kinh tế, dự án mang ý nghĩa xã hội sâu sắc tạo việc làm ổn định cho lao động địa phương, hỗ trợ nông dân chuyển đổi từ canh tác truyền thống sang nông nghiệp công nghệ cao, đào tạo kỹ thuật và chuyển giao quy trình sản xuất hiện đại, nâng cao năng lực cộng đồng trong ứng dụng công nghệ xanh. Mô hình có khả năng nhân rộng trên nhiều vùng nông thôn, góp phần hình thành đội ngũ nông dân thế hệ mới – làm chủ công nghệ, làm chủ tri thức.
Dự án mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho môi trường, phù hợp với chiến lược phát triển bền vững quốc gia như, giảm phát thải CO₂ nhờ sử dụng năng lượng tái tạo, giảm áp lực lên hệ thống điện quốc gia, tận dụng phụ phẩm nông nghiệp làm giá thể trồng nấm, tái sử dụng phụ phẩm sau thu hoạch làm phân hữu cơ.
Đại diện phía Ban Giám khảo, ông Đàm Quang Thắng, Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo Quốc gia đánh giá cao định hướng kết hợp năng lượng tái tạo với nông nghiệp công nghệ cao của dự án. Tuy nhiên, ông cho rằng nhóm cần làm rõ hơn các yếu tố liên quan đến người tiêu dùng, đặc biệt là giá thành, chất lượng sản phẩm và tính bền vững khi mở rộng quy mô.

Chia sẻ về nội dung này, đại diện dự án cho biết sản phẩm chủ lực hiện nay là nấm thô, chiếm khoảng 70% cơ cấu sản phẩm. Dự án đã xây dựng chuỗi giá trị khép kín, trong đó giống nấm là tài sản cốt lõi và đã được bảo hộ. Các sản phẩm nấm đều được kiểm nghiệm, đáp ứng các tiêu chuẩn như ISO, VietGAP; khi phân phối cho các đơn vị đối tác, sản phẩm tiếp tục được kiểm tra chất lượng theo yêu cầu riêng của từng thị trường. Trong bối cảnh Nhà nước ngày càng siết chặt truy xuất nguồn gốc và kiểm soát hàng hóa biên giới, đây cũng là cơ hội để dự án mở rộng thị phần nhờ lợi thế về minh bạch và tiêu chuẩn. Song song đó, dự án đang phát triển các sản phẩm giá trị gia tăng, trong đó có nấm linh chi, gắn với chiến lược xây dựng thương hiệu dài hạn.
Ở góc độ công nghệ và quản trị chuỗi liên kết, ông Vũ Thanh Thắng, Chủ tịch Công ty Cổ phần AIZ, đặt câu hỏi về khả năng kiểm soát công nghệ khi dự án liên kết với nông dân, hệ thống cần những dữ liệu gì để đánh giá hiệu quả và chất lượng sản xuất?

Theo đại diện dự án, mô hình được triển khai theo hướng tận dụng sẵn hạ tầng điện mặt trời của các trang trại, nhóm dự án chỉ bổ sung một số khâu kỹ thuật cần thiết. Nông dân hoặc chủ các khu điện mặt trời trực tiếp vận hành, trong khi nhóm dự án đóng vai trò thiết kế quy trình, chuyển giao kỹ thuật và kiểm soát đầu ra. Nhóm dự án đã xây dựng hệ thống đo đạc, tiêu chí kỹ thuật cụ thể và đang từng bước số hóa dữ liệu để làm cơ sở đánh giá, quản lý. Mô hình này đã được triển khai thử nghiệm và hình thành sản xuất liên tục trong 4 năm tại Đắk Lắk, cho thấy tính khả thi của phương thức tích hợp giữa nông nghiệp và năng lượng tái tạo.

Liên quan đến hiệu quả tài chính, đại diện dự án cho biết doanh thu năm 2025 tính đến tháng 6 đạt khoảng 1,7 tỷ đồng. Hai đến ba năm đầu được xác định là giai đoạn thử nghiệm và hoàn thiện quy trình; hiện dự án đã bước sang giai đoạn tăng trưởng. Nhà máy quy mô 5 ha hiện tập trung sản xuất phôi nấm, làm nền tảng để tiếp tục mở rộng trong thời gian tới.

Ngoài ra, trước câu hỏi về tính độc quyền của mô hình, đại diện dự án cho biết đây là mô hình tích hợp tổng thể, được hình thành từ quá trình nghiên cứu dài hạn và đầu tư lớn vào con người, công nghệ và quy trình. Khi tiếp cận một trang trại điện mặt trời, dự án tiến hành khảo sát, xây dựng kế hoạch sản xuất, trực tiếp sản xuất phôi, chuyển giao kỹ thuật và đào tạo vận hành, sau đó thu mua toàn bộ sản phẩm nấm để đưa ra thị trường. Nhờ kiểm soát toàn bộ chuỗi này, giá thành sản phẩm hiện thấp hơn khoảng 20% so với thị trường, đồng thời vẫn đảm bảo chất lượng và tính bền vững.
BIOQ xây dựng thương hiệu mỹ phẩm thuần chay từ vỏ thanh long, hướng tới kinh tế tuần hoàn và thị trường quốc tế.

Xuất phát từ thực tế vỏ thanh long - phụ phẩm chiếm tỷ lệ lớn nhưng thường bị bỏ phí, BIOQ lựa chọn hướng đi khác biệt khi khai thác nguồn nguyên liệu này để chiết tách các hoạt chất tự nhiên như pectin, polyphenol và vitamin phục vụ chăm sóc da. Dựa trên nền tảng công nghệ sinh học, dự án xây dựng quy trình chiết tách an toàn, tinh khiết, kết hợp nano hóa nhằm tăng khả năng thẩm thấu và phù hợp với làn da nhạy cảm.Bên cạnh yếu tố công nghệ, BIOQ xác định triết lý thuần chay là định hướng phát triển dài hạn, với cam kết không thử nghiệm trên động vật, không sử dụng nguyên liệu có nguồn gốc động vật và ưu tiên các thành phần thân thiện môi trường.

Đại diện BIOQ cho biết mục tiêu của dự án không chỉ là phát triển sản phẩm làm đẹp mà còn góp phần nâng cao giá trị nông sản Việt, giảm lãng phí phụ phẩm và tạo thêm sinh kế cho người dân địa phương. Trong giai đoạn tới, BIOQ sẽ tập trung chuẩn hóa sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, đầu tư cho hoạt động R&D và từng bước mở rộng sang các thị trường châu Á có nhu cầu cao về mỹ phẩm thuần chay, hướng tới mô hình khởi nghiệp bền vững gắn với kinh tế tuần hoàn.
Tại phần phản biện, ban giám khảo tập trung làm rõ bài toán nguồn nguyên liệu, tiêu chuẩn đầu vào và khả năng phát triển dài hạn của BIOQ. Trước câu hỏi về việc thu mua vỏ thanh long từ nhiều nguồn khác nhau có thể phát sinh rủi ro về an toàn và kiểm soát chất lượng, hội đồng gợi ý dự án nên liên kết với các vùng trồng, đơn vị có chứng nhận rõ ràng để tạo lợi thế cạnh tranh.Trả lời vấn đề này, đại diện BIOQ cho biết hiện dự án đang thu mua vỏ thanh long chủ yếu tại Lâm Đồng, với mức giá khoảng 5.000 đồng/kg vỏ.
Lâm Đồng được xác định là khu vực trọng điểm trong giai đoạn hiện nay nhờ nguồn cung ổn định và sự đồng hành tích cực của các tổ chức địa phương, đặc biệt là hệ thống Hội Liên hiệp Phụ nữ. Theo BIOQ, việc tập trung vào một số vùng trồng cụ thể là bước đi phù hợp để đảm bảo chất lượng nguyên liệu và khả năng kiểm soát. Thời gian tới, dự án dự kiến mở rộng làm việc với tỉnh Long An (hiện giờ là Tây Ninh) - địa phương có diện tích trồng thanh long lớn nhằm đa dạng hóa nguồn cung theo hướng bài bản hơn.Liên quan đến định hướng thị trường quốc tế, ban giám khảo lưu ý Nhật Bản và Hàn Quốc là những thị trường đặc biệt khắt khe về đầu vào. Việc tận dụng hệ sinh thái vùng trồng đạt chứng nhận quốc tế không chỉ giúp đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu mà còn gia tăng giá trị thương hiệu.

Về mô hình kinh doanh, BIOQ chia sẻ giai đoạn đầu doanh thu chủ yếu đến từ B2C, song thời gian gần đây mảng B2B đang tăng trưởng nhanh hơn. Nếu nhận được nguồn vốn đầu tư lớn, dự án sẽ ưu tiên xây dựng thương hiệu, mở rộng hệ sinh thái dịch vụ như spa, đồng thời hợp tác với các hiệp hội, tổ chức tại địa phương nhằm tạo sinh kế bền vững.
Trước câu hỏi về việc mở rộng nguyên liệu ngoài vỏ thanh long, BIOQ cho biết đang nghiên cứu các hướng mới, trong đó có kế hoạch kết hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bắc Ninh để phát triển dòng son handmade từ bông.Đánh giá về khả năng tồn tại trong thị trường mỹ phẩm cạnh tranh, BIOQ khẳng định lựa chọn phân khúc phụ nữ từ 25-40 tuổi, tập trung vào dòng skincare sử dụng hằng ngày. Thay vì chạy theo các sản phẩm “bùng nổ” ngắn hạn, dự án theo đuổi chiến lược xây dựng niềm tin dựa trên nền tảng khoa học, kiên trì theo hướng “mưa dầm thấm lâu”.


BIOQ cho biết nếu có điều kiện mở rộng quy mô không giới hạn về vốn, dự án đặt mục tiêu đạt doanh thu khoảng 50 tỷ đồng mỗi năm, tương đương mức tăng trưởng 4-5 lần so với hiện tại, một con số được nhóm đánh giá là thận trọng nhưng khả thi. Nhóm sáng lập cũng bày tỏ sự trân trọng và tiếp thu các góp ý của ban giám khảo để hoàn thiện mô hình trong giai đoạn tiếp theo.