Nghị quyết số 1796/NQ-UBTVQH vừa được ban hành tiếp tục đưa ra những yêu cầu hoàn thiện hành lang pháp lý cũng như đổi mới công tác đào tạo, thu hút nhân lực chất lượng cao.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn vừa ký ban hành Nghị quyết số 1796/NQ-UBTVQH giám sát chuyên đề về việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Theo đó, Nghị quyết nêu rõ, chất lượng nguồn nhân lực cải thiện với tốc độ chậm, chưa đột phá, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường lao động trong giai đoạn tới.
Bên cạnh đó, yêu cầu về nhân lực chất lượng cao ngày càng cấp thiết, đất nước ta đang đứng trước nguy cơ thiếu hụt nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành, “tổng công trình sư”, nhóm nghiên cứu mạnh trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế mới, nhân lực phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh và các lĩnh vực quan trọng khác như luật, trí tuệ nhân tạo, bán dẫn...
Cơ chế tài chính cho phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa tương xứng với vai trò “đột phá chiến lược”. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo các năm 2021, 2022, 2023 đều dưới 18%.
Đầu tư phát triển giáo dục đại học chưa trọng tâm, trọng điểm. Việc phân bổ vốn đầu tư chưa gắn với kết quả đầu ra. Chưa chú trọng chi đầu tư phát triển lực lượng nhà khoa học, nhà giáo giỏi; nâng cao chất lượng đào tạo; phát triển các nghề trọng điểm cấp quốc gia.
Do đó, Nghị quyết đã đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp về tổ chức thực hiện. Cụ thể, Chính phủ khẩn trương ban hành Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Các bộ, ngành, địa phương căn cứ định hướng của Chính phủ xây dựng, ban hành văn bản về phát triển nguồn nhân lực phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới.
Nghiên cứu ban hành quy định về nhân lực chất lượng cao theo hướng quy định rõ về khái niệm, tiêu chí, thẩm quyền xác định nhân lực chất lượng cao trong tổng thể nguồn nhân lực (qua các tiêu chí về trình độ, kết quả đào tạo; kỹ năng nghề nghiệp; kinh nghiệm, uy tín, thành tựu trong công tác.
Hoàn thiện hành lang pháp lý về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng thích ứng linh hoạt, phục vụ các ngành nghề Việt Nam có lợi thế, ngành nghề cần ưu tiên, ngành nghề thiếu nhân lực, nhất là cơ chế huy động các nguồn lực đầu tư, đóng góp cho đào tạo, phát triển nhân lực chất lượng cao.
Nghiên cứu, sửa đổi quy định về quản lý lao động nước ngoài, thủ tục cấp giấy phép lao động, về điều kiện, thủ tục đối với người nước ngoài là chuyên gia và lao động kỹ thuật làm việc tại Việt Nam.
Đổi mới công tác dự báo nguồn nhân lực. Đẩy mạnh phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, hình thành các cơ sở dữ liệu về lao động, quản lý lao động khu vực công lập và ngoài công lập gắn kết, liên thông với các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác.
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong theo dõi, dự báo, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
Tập trung đầu tư, nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp trọng điểm, gắn với nhóm ngành ưu tiên, nhóm ngành thiếu nhân lực; dịch chuyển cơ cấu thị trường lao động theo hướng sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với thu nhập cao; bảo đảm thực hiện đúng, đủ quy định về mức chi tối thiểu ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo
Thực tế, vừa qua, 4 nghị quyết “bộ tứ trụ cột” của Bộ Chính trị đã được ban hành đều có những nội dung liên quan đến việc nâng cao chất lượng dạy và học, nhất là chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đơn cử như phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, nhiệm vụ hàng đầu là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao. Theo đó, triển khai Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị, Chính phủ ban hành Nghị định 231/2025/NĐ-CP quy định về tuyển chọn, sử dụng tổng công trình sư, kiến trúc sư trưởng về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Trong đó nêu rõ, Áp dụng chế độ, chính sách đột phá, linh hoạt đối với tổng công trình sư và kiến trúc sư trưởng, tương xứng với chất lượng sản phẩm, công việc, tạo động lực để tổng công trình sư và kiến trúc sư trưởng cống hiến, đóng góp cho sự nghiệp phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số của đất nước.
Chuyên gia nhận định, chuỗi chính sách từ Nghị quyết 57 đến các đạo luật và chỉ đạo mới đây cho thấy một tầm nhìn chính sách nhất quán: Để khoa học công nghệ thực sự trở thành động lực đột phá, nhất thiết phải tháo gỡ điểm nghẽn con người. Những đãi ngộ “vượt khung” và cơ chế “đặt hàng” nhân tài lần này chính là lời giải cho bài toán lâu nay về chảy máu chất xám.
“Giờ đây, một chuyên gia hàng đầu trở về nước có thể nhận mức thu nhập tương xứng, có nhà ở và môi trường làm việc thuận lợi, được pháp luật bảo hộ quyền lợi. Họ cũng có cơ hội được giao trọng trách tột đỉnh, trở thành tổng công trình sư dẫn dắt những dự án mang dấu ấn quốc gia. Đây là cơ hội vàng để thu hút thế hệ trí thức người Việt toàn cầu và các chuyên gia quốc tế cùng chung tay đưa khoa học công nghệ Việt Nam cất cánh”, TS Trần Văn Khải, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội từng nhận định.