Thay đổi khái niệm doanh nghiệp nhà nước trong Luật Doanh nghiệp 2020 sẽ là tấm đệm để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.
Đó là khẳng định của Luật sư Lương Văn Chương, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chính Minh khi trao đổi với Diễn đàn Doanh nghiệp.
Luật Doanh nghiệp sửa đổi năm 2020 đã sửa đổi khái niệm doanh nghiệp nhà nước (DNNN) theo nguyên tắc phân chia các loại doanh nghiệp có sở hữu nhà nước theo mức độ khác nhau, mỗi loại hình doanh nghiệp có quy định về tổ chức quản trị phù hợp để nâng cao hiệu lực quản trị, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, bảo đảm bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
-Các quy định về doanh nghiệp nhà nước trong Luật 2020 có gì khác biệt so với Luật Doanh nghiệp các phiên bản trước đây, thưa ông?
Khái niệm về doanh nghiệp nhà nước được thay đổi lần này giống với cách định nghĩa 15 năm trước của Luật Doanh nghiệp 2005. Theo đó, Luật Doanh nghiệp 2005 với quy định DNNN là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ.
Việc Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ đã bảo đảm quyền chi phối trực tiếp việc ra các quyết định thông thường (chỉ yêu cầu tỷ lệ trên 50%) và chi phối gián tiếp (phủ quyết) việc ra một số các quyết định khác (yêu cầu tỷ lệ 65%) của doanh nghiệp đó.
Trước đó, trong mỗi lần sửa Luật, khái niệm doanh nghiệp nhà nước đều được thay đổi. Với Luật DNNN 1995, DNNN được hiểu là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. Phạm vi điều chỉnh của đạo luật này bao trùm hết các tổ chức kinh tế có vốn của Nhà nước. Khi Luật DNNN 2003 được ban hành, nội hàm của khái niệm DNNN được thu hẹp lại, bao gồm tổ chức kinh tế do Nhà nước (i) sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc (ii) có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020 thì DNNN bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết thay vì 100% vốn điều lệ như hiện nay.
-Nhưng rõ ràng, việc thay đổi liên tục khái niệm doanh nghiệp nhà nước sẽ tác động không nhỏ đến các bên có liên quan, từ góc độ kinh tế đến tâm lý và niềm tin vào chính sách, đặc biệt là các nhà đầu tư, thưa ông?
Đúng là như vậy, việc thay đổi nhiều lần khái niệm DNNN sẽ tạo ra những vấn đề pháp lý cần phải giải quyết.
Thứ nhất, khái niệm DNNN đã thay đổi liên tục, không bảo đảm tính nhất quán, tác động đến cách thức quản lý của các doanh nghiệp, tạo ra sự khác biệt trong cách thức quản lý với các doanh nghiệp khác. Chính sự thay đổi liên tục khiến cho chưa có những quy định cụ thể cho việc quản lý cách thức hoạt động của doanh nghiệp này. Vì vậy, rất dễ xảy ra tình trạng lợi dụng những lỗ hổng này để một số cá nhân, tổ chức trục lợi.
Thứ hai, cũng do sự thay đổi này nên ban đầu sẽ là những thách thức đối với người điều hành hoặc những người tham gia vào DNNN vì họ sẽ phải làm quen với mô hình cũng như cách thức hoạt động mới để bắt kịp với thị trường đang cạnh tranh khốc liệt.
Thứ ba, theo rà soát, việc thay đổi khái niệm DNNN sẽ tác động trực tiếp đến chín luật (Bộ luật Dân sự, Luật Đấu thầu, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý tài sản công, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Thủy lợi, Luật Lâm nghiệp, Luật Xây dựng, Luật các tổ chức tín dụng) và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành. Do đó, sự thay đổi lần này chắc chắn sẽ làm cho tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn trong các quy định liên quan đến DNNN vốn đang tồn tại và chưa được giải quyết trở nên trầm trọng hơn nếu như không có sự rà soát và điều chỉnh một cách đồng bộ.
Đồng thời, việc thay đổi này cũng có tác động rất lớn đến hoạt động của nhiều doanh nghiệp, trong khi thực tế hiện nay, cơ chế quản lý hoạt động của các DNNN rất phức tạp; khiến quá trình cổ phần hóa cũng gặp nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, vấn đề về DNNN là một trong những nội dung quan trọng trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA. Cả hai hiệp định này đều dành chương riêng cho việc thiết lập các chính sách và hành vi của Nhà nước đối với DNNN. Vì vậy, việc thay đổi cách nhận diện DNNN để phù hợp với các quy định của hiệp định này là điều cần thiết phải làm.
Vậy nên, sự thay đổi lần này theo tôi là hợp lý, đồng thời tỷ lệ này cũng phù hợp với với các cam kết, thông lệ quốc tế.
-Về lâu dài, làm thế nào để nâng cao hiệu quả quản lý DNNN thưa ông?
Dù đã gặt hái được nhiều thành tựu trong thời gian qua, tuy nhiên DNNN vẫn còn tồn tại một số những hạn chế. Và để khắc phục thì khâu quản lý là vô cùng quan trọng, cần được nâng cao để tăng tính hiệu quả trong hoạt động của DNNN.
Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý về các hoạt động của DNNN. Nhà nước cần phải rà soát cũng như sửa đổi lại những quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn nhau cũng như những lỗ hổng pháp lý còn đang tồn tại và rút kinh nghiệm từ những sai phạm thực tế để hoàn thiện các quy định pháp luật, đảm bảo tính công khai minh bạch và tuân thủ của các đối tượng thực hiện.
Thứ hai, cần phải nâng cao tính minh bạch và năng lực giám sát DNNN. Nhà nước cần xây dựng và công khai hóa chiến lược, chính sách đầu tư tại các DNNN. Minh bạch hoá thông tin hàng năm về đầu tư vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, danh sách và số lượng doanh nghiệp có vốn nhà nước; mức độ đầu tư, hiệu quả đầu tư; hiệu quả kinh doanh của các DNNN.
Bên cạnh đó, việc quản lý, giám sát toàn diện và hiệu quả DNNN có thể được tập trung về một cơ quan chuyên trách thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ sở hữu Nhà nước. Tuy nhiên để quản lý hiệu quả thì cần có các quy định pháp luật dành riêng cho cơ quan này tránh xảy ra lợi ích nhóm.
-Ngoài ra, một giải pháp quan trọng đã và đang thực hiện có hiệu quả là cổ phần hóa DNNN, thưa ông?
Thực tế, Cổ phần hoá (CPH) DNNN đang được triển khai và đã đạt được những thành tựu nhất định. Tổng số thu từ CPH, thoái vốn lũy kế từ năm 2016 đến nay đạt hơn 218.255,691 tỷ đồng, gấp 2,8 lần tổng thu từ CPH, thoái vốn của cả giai đoạn 2010-2015.
Có thể thấy những thành tựu tích cực trên chính là một động lực và nguyên nhân để tiếp tục triển khai phương thức này rộng rãi.
Tuy nhiên, để phương thức này trở nên hiệu quả hơn, cần xây dựng khung pháp lý trong quá trình CPH và sau CPH cũng như các chính sách quản lý và tính công khai minh bạch để tránh việc trục lợi khi quy định pháp luật chưa hoàn thiện xảy ra.
- Xin cảm ơn ông!
Có thể bạn quan tâm