Bất kỳ chính sách có tính “bao cấp” nào cũng sẽ dễ sa vào cơ chế phi thị trường. Thay vì hỗ trợ và ưu đãi dàn trải, cần cơ chế khơi thông vốn của Nhà nước như một “bà đỡ”.
Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị mang đến làn gió mới cho khu vực doanh nghiệp tư nhân, cho kỳ vọng về vị thế của khu vực này trong nền kinh tế. Đi cùng, là kỳ vọng về các quyết sách hỗ trợ.
Trong kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa 15, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 198/2025/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân. Trên cơ sở các định hướng, các nội dung nhằm hiện thực hóa việc đa dạng hóa nguồn vốn sẽ dần được hình thành.
Đa số các doanh nghiệp ở Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ, các hộ kinh doanh gia đình triển vọng sẽ lên doanh nghiệp.
Vốn đầu tiên của họ là nguồn tự có, nguồn tích lũy, nguồn kinh doanh có được để tái đầu tư. Vốn thứ hai từ tín dụng ngân hàng. Vốn thứ ba từ vay mượn các tổ chức, cá nhân. Vốn từ tổ chức, quỹ đầu tư tư nhân, các quỹ hỗ trợ như quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhà nước, quỹ địa phương, ví dụ TP HCM có các quỹ qua HFIC… Vốn cổ phần, đại chúng và phát hành trái phiếu trên thị trường. Vốn từ cho thuê tài chính.
Như vậy, hình thức tiếp vốn cho doanh nghiệp tư nhân là khá đa dạng. Song tựu trung, do quy mô nhỏ, ít tài sản, khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng.
Đến cuối năm 2024, dư nợ tín dụng cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân đạt khoảng 7 triệu tỷ đồng, tăng 14,7% so với năm 2023, chiếm 44% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Theo Cục Thống kê, Bộ Tài chính, Việt Nam có gần 1 triệu doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 97% tổng số doanh nghiệp. Như vậy, con số tiếp cận tín dụng và phát sinh dư nợ với ngân hàng nêu trên, bỏ ngoài yếu tố có nhu cầu vay vốn hay không, vẫn được xem là một tỉ lệ còn khiêm tốn. Bộ Tài chính cũng thống kê có tới 70% doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn trong vay vốn ngân hàng do thiếu tài sản thế chấp hoặc quy trình xét duyệt phức tạp.
Trong khi đó, làm thế nào để ngân hàng cũng “hoan hỉ” cho vay và yên tâm về chất lượng tín dụng với nhóm vay không có tài sản đảm bảo? Cơ chế khuyến khích sản phẩm cho vay theo dòng tiền, theo chuỗi, theo dự án thực tế cũng đã được các ngân hàng chủ động thiết kế và áp dụng, nhưng rõ ràng không thể đẩy mạnh đại trà.
Đến đây, cần bàn tay “bà đỡ” của Nhà nước để giúp doanh nghiệp tiếp cận được kênh vốn truyền thống. Vai trò đó trước hết nằm ở chỗ thúc đẩy tổng lực nền kinh tế để kiến tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, tốc độ chu chuyển dòng vốn nhanh, thuận lợi để cung tiền ra nền kinh tế. Khi doanh nghiệp tạo được nhiều sản phẩm đóng góp sản phẩm cho GDP, có thu nhập trả nợ, có mục đích vay rõ ràng tăng lên, thì khả năng tiếp cận vốn cũng tốt lên.
Bên cạnh kênh truyền thống, cần khơi thông kênh cho thuê tài sản, kênh từ các quỹ đầu tư theo hướng “đo ni đóng giày” thúc đẩy động lực tăng trưởng trong Nghị quyết 68-NQ/TW là khoa học công nghệ - đổi mới sáng tạo, thúc đẩy khởi nghiệp.
Không nói đâu xa, Việt Nam hiện vẫn chưa có cơ chế hiệu quả để thúc đẩy quỹ đầu tư thiên thần đầu tư mạnh mẽ vào khởi nghiệp. Trong khi đó, hơn ai hết cộng đồng người kinh doanh nhận thức càng có nhiều mầm gieo từ bây giờ. Lưu ý các cơ chế quỹ này cần xác lập điểm mấu chốt từ vai trò “bà đỡ” Nhà nước: Xây cơ chế kích thích và thu hút xã hội hóa đầu tư. Nhà nước không nên làm thay hay lập quỹ đầu tư từ ngân sách và “bao cấp” vốn.
Cùng với đó, như Nghị quyết 68-NQ/TW định hướng, là cơ hội tiếp cận nguồn lực, đất đai… mở rộng và cụ thể là các cơ chế tiếp cận dự án lớn. Doanh nghiệp lớn như Vingroup, Hòa Phát… được tin, giao tham gia công đoạn cho các dự án đầu tư trọng điểm như cao tốc, đường sắt... trên cơ sở năng lực tài chính, kinh nghiệm khả năng triển khai… là tất yếu. Nhưng doanh nghiệp nhỏ sẽ có công việc nhỏ, công đoạn nhỏ. Mỗi chaebol Hàn Quốc kéo theo vô số nhà cung ứng doanh nghiệp nhỏ trong chuỗi; song đừng quên trước khi trở thành chaebol, họ cũng đâu đó xuất phát điểm từ một doanh nghiệp nhỏ.
Vì vậy, cơ hội để các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài hệ sinh thái lớn được tham gia các dự án lớn sẽ tạo điều kiện cho chính các doanh nghiệp này lớn lên. Sự công bằng trong trao cơ hội, trong tiếp cận các dự án vừa đảm bảo tính cạnh tranh, đồng thời vừa đảm bảo khơi nhu cầu vốn và tăng tính trả nợ mà không phụ thuộc vào “chìa khóa” tài sản đảm bảo. Xét duyệt, sàng lọc doanh nghiệp tham gia công đoạn nhỏ, việc nhỏ tại dự án lớn lại cần những “chìa khóa” khác. Nhưng phải có cơ chế, cửa phải mở, thì doanh nghiệp mới có cơ hội để xếp hàng.